Hằng năm, cứ đến ngày 29-3, trong căn nhà số 673 (đường Trần Cao Vân, thành phố Đà Nẵng) con cháu lại về đông đủ để nghe bà kể chuyện hoạt động trong lòng địch. Hơn 40 năm về trước, bà chính là cô gái bụng mang dạ chửa, kẽo kẹt gánh hai thùng đạn AK, chở 18 khẩu súng qua nhiều đồn bốt của địch. Bị chúng bắt bất ngờ, bà đã mưu trí nuốt 9 và tiêu hủy 4 lá thư ngay trước mắt địch. Bà là Huỳnh Thị Trang (Tám Trang), giao liên Quận ủy Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng giai đoạn 1965-1975.
Cô giao liên nhỏ tuổi
Tám Trang không thể nào quên kỷ niệm một ngày kỵ nội, má chị gọi các con đến sát bàn thờ. Bà nâng chiếc khay, một tấm hình nhỏ hiện ra. Nâng niu phủi sạch lớp bụi, má chỉ vào ông cụ có gương mặt hiền từ bảo: "Đây là Bác Hồ. Nhờ có ông này mà đất nước nhất định có độc lập, đời các con nhất định sẽ bình an, hạnh phúc hơn đời má". Từ đó, trong trái tim của cô bé hơn 10 tuổi đã có hình ảnh Bác Hồ. 13 tuổi, cô đã được chú Tiền, chú Lê... giao nhiệm vụ theo dõi địch.
Ban đêm, Trang ngủ ở giường ngoài, chân gác lên bậc cửa. Khi Tư Xuân, Năm Hết... đi đánh đồn Hòa Mỹ, Xuân Hòa về sờ vào biết chân em gái mới yên tâm vào nhà. Các anh ăn cơm, bé Trang ngồi nhìn ra ngoài canh chừng quân địch. Cô bé biết mấy anh “đi đêm về hôm” đi làm cách mạng. Trong trí óc non nớt của cô, nghĩa là các anh cô đi theo Bác Hồ để sau này mọi người sung sướng. Chú Tiền bảo Trang đi ngó địch cũng là đi làm cách mạng. Cô thích lắm. Một hôm, mấy anh vừa ra khỏi nhà thì đụng địch vây ráp. Anh Thương là bộ đội vội quay lại. Trang liền dẫn anh ra hầm bí mật. Đó là rặng tre phía sau nhà. Má đã cùng Trang vạch cành tre đưa một tấm ván to vào chính giữa. Bộ đội có thể ngồi trên đó. Xung quanh gai góc um tùm. Thằng địch có tinh mắt mấy cũng thua má con Trang. Sau bận ấy, các chú gọi Tám Trang là “giao liên cách mạng”.
Những chiến công thầm lặng
Lớn lên, má bắt lấy chồng, Tám Trang cự nự: “Con còn nhỏ. Má cho con làm cách mạng, khi mô nước nhà độc lập lấy chồng cũng chưa muộn”. Má Lùng chỉ cười: “Thôi kệ ba con nhà cô đấy”. Trang biết má nói vậy nhưng má vui vì mấy anh em đều làm theo ước nguyện của bà. Một hôm, Ba Xuân dẫn về một thanh niên giới thiệu là bạn đi biển, tên Hai Được. Ngó bộ đẹp trai, hiền lành, chỉ tội hơi... trẻ. Má khen anh ấy riết khiến Tám Trang cảm động gật đầu cái rụp. Đám cưới được tổ chức ngay sau đó.
 |
|
Bà Huỳnh Thị Trang và ông Hồ Văn Được trước giải phóng. |
Năm 1960, anh chị ra ở riêng. Hai Được tiếp tục cùng Ba Xuân đi biển. Tám Trang ngày ngày kẽo kẹt gánh cá ra chợ. Trong gánh của chị luôn có tài liệu của mấy chú giải phóng. Nhận chỉ thị của đồng chí Bí thư quận ủy quận nhì Nguyễn Thanh Năm (tức Năm Dừa) về nhiệm vụ đào hầm bí mật, Tám Trang rất trăn trở. Trước nhà cô là nhà một cảnh sát ngụy tên là Liến, sau nhà có tên cảnh sát chìm Bùi Văn Yên. Cách khoảng 100m, lại có một gia đình lính ngụy sinh sống… Bao nhiêu hiểm nguy rình rập. Nhưng đây là nhiệm vụ của Đảng nhất định phải thực hiện. Sau nhiều đêm suy nghĩ, Tám Trang bàn với chồng làm hầm bí mật bằng cách dùng phên hai lớp. Và từ đó, tiếng rao “Ai mua cá không?” của chị nghe nằng nặng hơn. Vì ngoài mấy đứa con, bây giờ chiếc gánh còn nuôi thêm sáu chú bộ đội đặc công nằm vùng. Cảnh sát, bảo an, dân vệ… thường xuyên kiểm tra. Chúng nghi nhà chị nuôi Cộng sản. Có hôm, tụi dân vệ xộc vô bất thình lình kiểm tra nồi cá kho, nồi cơm đang bắc trên bếp. Nhìn chiếc nồi bé tẻo teo sôi sùng sục, tên chỉ huy văng một câu chửi tục rồi cút thẳng. Biết kiểu gì địch cũng sờ đến, nên Tám Trang đã nấu cơm làm nhiều lần. Do đó, chúng kiểm tra lúc nào cũng chỉ phát hiện khẩu phần của bốn má con chị.
Lúc ấy, quận ủy quận nhì yêu cầu Hai Được đi học lái xe để chui vào hàng ngũ của địch. Tám Trang ở nhà nuôi con, nuôi bộ đội và chị còn kiêm luôn nhiệm vụ bảo vệ Bí thư Quận ủy Nguyễn Thanh Năm. Hết thời gian học, Hai Được được tổ chức bố trí lái xe cho Ban công sai của cảnh sát Thanh Khê. Tuy hai người cùng chung trận tuyến nhưng không hề biết nhiệm vụ của nhau. Có hôm, anh dùng xe cảnh sát chở gần 20 bó củi về nhà, trong đó giấu 30 khẩu súng AK. Chị vờ chê củi chưa khô, kéo xuống phơi ngay trước cửa. Tối đến, vợ chồng hì hục khênh vào. Hai Được mới lặng lẽ rút những khẩu súng đưa xuống hầm bí mật.
Một hôm, anh Năm Dừa gặp riêng chị nói: “Tổ chức giao cho chị nhiệm vụ chuyên chở súng đạn và lương thực về cung cấp cho bộ đội đặc công nằm vùng tại khu vực Thanh Khê. Tôi biết ngoài chị ra không ai có thể làm được. Ý chị thế nào?”. Tám Trang gật đầu quả quyết: “Tôi sẵn sàng nhận nhiệm vụ”.
Một ngày kia, người đi đường chợt thấy một phụ nữ ăn mặc lịch sự, gánh trên vai mấy bó củi và hai thùng dầu xà lách. Khi qua đồn địch chị bước khoan thai, mỉm cười chào bọn lính. Chúng để chị đi không cần xét hỏi. Tám Trang yên tâm chuyến này chắc thành công dễ dàng. Nhưng khi về gần tới nhà thì một tên lính đi tuần hất hàm hỏi: “Này bà kia! Gánh cái gì mà nặng dữ vậy?”.
Chị sẽ sàng đặt gánh xuống, từ tốn thưa: “Dạ! Thưa thầy, tôi lên chợ Ngã Tư mua củi và mấy lít dầu tây. Ông xã tôi theo bà nhỏ đi nhậu xỉn, trúng gió nên tôi mua ít củi về sưởi cho ổng đấy mà”.
- Ông xã bà làm gì mà đổ đốn vậy?
- Dạ, ổng là cảnh sát ở Đà Nẵng đó mấy thầy.
Chị nói như phân bua: “Mà không biết cảnh sát, lính tráng chi lại say rượu, bồ bịch suốt ngày, rứa thì làm việc ra răng nữa chớ! Nói thật với mấy thầy, tôi mà là thượng cấp thì tôi cho ổng vào tù lâu rồi. Thôi, thầy làm ơn khám lẹ lẹ đi kẻo ổng đợi ở nhà. Thiệt khổ ơi là khổ”. Nghe vậy, tên lính đi cùng bảo: “Thôi để bả đi đi. Chồng bả cũng làm việc quốc gia…”. Tám Trang bình tĩnh đặt gánh lên vai, miệng "cảm ơn mấy thầy" rồi thong thả bước. Về đến nhà, chị thở phào nhẹ nhõm, lật nắp kéo 4 hòm đạn AK ra khỏi thùng dầu. Những chuyến sau đó, trong vai người buôn chè, chị lại tiếp tục đưa hàng trăm kẹp đạn về hầm bí mật.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, dù đã trải qua bao hiểm nguy nhưng Tám Trang không thể nào quên được lần trong vai người mua than chở súng về cho bộ đội. Đó là một buổi sáng tháng 6-1967, Tám Trang nhận được tín hiệu từ cơ sở, chị vội vàng lên chợ Hòa Khánh để nhận hàng. Lúc này, Tám Trang đang có thai đứa con thứ 5. Trong đầu chị vụt lên hình ảnh những bao than chờ ngày ở cữ. Tám Trang quyết định giấu 18 khẩu súng AK vào 6 bao than. Được cơ sở giới thiệu, chị thuê một chiếc xe lam chở than về Thanh Khê. Xe chạy khoảng 2 ki-lô-mét, đến đồn cảnh sát Hoà Mỹ thị bị địch chặn lại. Chúng dùng những cây sắt dài chọc thẳng vào bao than. Nhìn cây sắt nhọn chọc vào bao than, lòng Tám Trang như xát muối. Chị biết nếu địch chọc đúng khẩu súng thì chúng sẽ bắn chết chị ngay tại chỗ. Mẹ con chị hy sinh cho cách mạng không phải là điều chị lo lắng, mà điều chị sợ nhất là số súng không về được đến tay bộ đội. Hàng chục chú đặc công nằm vùng trong nhà chị và các cơ sở ở Thanh Khê đang ngày đêm mong mỏi chuyến hàng này. Không có súng, ta không những không đánh được giặc mà còn bị chúng bắt tù đày. Nếu chẳng may hy sinh, không đem được hàng về thì chị có tội với cách mạng. Nhưng nhớ lời anh Năm căn dặn: "Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải bình tĩnh". Vì thế, mặc cho tụi cảnh sát lục soát, nét mặt Tám Trang vẫn bình thản. Và điều kỳ diệu đã xảy ra. Địch chọc thủng 6 bao than vẫn không thấy gì, chúng để chị đi. 18 khẩu AK về đến nơi an toàn.
 |
|
Gia đình bà Tám Trang thời kỳ 1965-1968. |
Một ngày đầu tháng 7-1968, cô giao liên Huỳnh Thị Trang nhận nhiệm vụ chuyển 13 lá thư cho cơ sở. Chị vẫn sắp gánh như mọi ngày. Trong gánh có thêm nồi cá ướp muối chị định đem đến nhà ông Hai Nhơn hoặc ông Xín (là những gia đình cơ sở cách mạng) để gửi lên căn cứ. Chị gấp thư vào túi áo dài. Bất ngờ, một chiếc xe cảnh sát đỗ xịch trước cửa. Ba tên mặc thường phục nhảy xuống. Chúng yêu cầu Tám Trang lên xe. Hàng xóm vô cùng ngạc nhiên. Tám Trang chỉ biết bán cá ở chợ chớ biết chi làm Cộng sản. Có người tò mò hỏi, chị đáp tỉnh bơ: “Mấy thầy kêu tui đi lĩnh chồng về”. Lúc này, anh Hồ Văn Được (chồng chị) đã bị địch bắt. 13 lá thư chưa kịp tiêu hủy. Nếu để cảnh sát phát hiện thì các cơ sở ở Thanh Khê ắt sẽ bị vỡ và hàng chục, thậm chí hàng trăm người sẽ bị địch bắt tù đày, giết hại. Chị chậm rãi mời chúng uống nước. Tên toán trưởng giục Tám Trang khẩn trương lên xe. Ngồi giữa hai tên cảnh sát, chị nghĩ cách phi tang. Nếu vứt thư xuống đường, dân nhặt được đem nộp cho địch sẽ được lĩnh thưởng năm chục ngàn. Còn ta sẽ bị lộ cơ sở, lộ danh sách cán bộ. Nhưng giữ trong người, chúng lục soát sẽ phát hiện ra. Một ý nghĩ chợt lóe lên khi nhận ra người bán ghẹ, Tám Trang thẽ thọt: “Tôi thèm ăn trầu quá! Mấy thầy cho tôi xin bà ta lá trầu”. Tên ngồi bên cạnh không cho chị xuống, nó ngoắc tay cho người bán ghẹ mang trầu đến. Chị thong thả thò tay vào túi tìm hạt cau. Năm ngón tay vò đi, xát lại mấy lá thư cho nát giấy. Sau đó, chị cầm lẫn hạt cau đút vào miệng nhai bỏm bẻm. Hai tên ngồi cạnh thấy chị này ăn trầu bẩn quá. Chị nuốt nước trầu như uống nước ngọt. Chúng ngồi dịch ra xa. Tám Trang lâu lâu lại lấy thêm hạt cau nhai cho ngon nước. Hai tên cảnh sát sợ nước trầu dây lên quần áo nên chẳng thèm để ý đến mụ bán cá ngồi cạnh. Tám Trang cố nhai, nuốt nhưng đến cái thứ 9 thì khô nước bọt, không nuốt được nữa. Lúc ấy, xe cũng vừa tới đồn. Trong túi chị vẫn còn 4 lá thư chứa bao sinh mệnh của đồng chí, đồng bào.
Có lẽ anh linh của các anh hùng liệt sĩ luôn dõi theo bước chân của Tám Trang. Vừa xuống xe, chị phát hiện ra chị Vinh, con mẹ Hiền (người đã nuôi những dũng sĩ Thanh Khê trong hầm bí mật). Chị vờ không quen biết, xin ít nước uống. Sau đó, Tám Trang đòi đi vệ sinh. Cài chặt cửa, chị vội vã nhai những lá thư còn lại. Chị bốc đất vò lẫn cục giấy đã được nhai kỹ và dùng hai tay xoa đều trên nền đất của nhà vệ sinh nhằm khỏa lấp số giấy vụn cho đến khi không còn dấu vết. Tên cảnh sát thấy chị đi lâu, sinh nghi liền đến gọi cửa. Chị kêu đau bụng. Sợ chúng bắt súc miệng nên ra khỏi cửa, chị vội xin nước uống thuốc.
Không có bằng chứng địch buộc phải thả chị. Tuy nhiên, bọn dân vệ đã chuẩn bị sẵn bao bố chờ Tám Trang về nhà sẽ thủ tiêu. Nhưng nhờ có người em được cài trong hàng ngũ địch báo cho biết nên chị đã thoát nạn. Về nhà gần hai tuần, chị bị địch bắt lại vì có kẻ báo Tám Trang chở súng đạn về cho bộ đội đặc công.
Bây giờ, dù chiến tranh đã lùi xa nhưng “chất lính” của người giao liên ấy vẫn tỏa sáng. Bà luôn tham gia các hoạt động xã hội. Chị Trần Thị Khanh, người dân ở quận Thanh Khê cho biết, chị Tám Trang không những anh hùng trong chiến đấu mà còn gương mẫu, nhiệt tình trong các hoạt động của địa phương.
Hằng năm, cứ đến ngày 29-3, trong căn nhà số 673 (đường Trần Cao Vân- thành phố Đà Nẵng) con cháu lại về đông đủ để nghe ông bà kể lại những ngày hoạt động trong lòng địch.
NGUYỄN SỸ LONG