QĐND Online - Lỉnh kỉnh nào chăn màn, nào củi đuốc, sách vở cùng với mười mấy con người “dồn” trong cái không gian chỉ có vỏn vẹn gần 13m2. Đó là các phòng trọ trong dãy nhà bán trú dân nuôi của trường THCS Huổi Luông (xã Huổi Luông, Phong Thổ, Lai Châu) - nơi gom góp, chắp nhặt, xây dựng ước mơ của học sinh trong xã.
Giường làm từ…
Trước thềm năm học mới, chúng tôi trở lại xã biên giới Huổi Luông, nơi còn tới hơn 50% số hộ dân nằm trong danh sách đói, nghèo. Xã vẫn còn nghèo nhưng tôi lại thấy vui bởi nơi đây đã có lớp người biết ước mơ, biết theo đuổi ước mơ cho dù để làm được điều đó họ còn phải vượt qua muôn vàn thử thách. Những người tôi nói đến ở đây là các em học sinh tôi đã gặp ở khu bán trú của trường THCS Huổi Luông.
 |
Các em học sinh ở bán trú của trường THCS Huổi Luông chuẩn bị bữa cơm chiều.
|
Đầu buổi làm việc, thầy giáo Nguyễn Văn Duy, Hiệu trưởng nhà trường nói: “Các em học sinh ở đây vất vả lắm. Cái ở thì thiếu cái ăn cũng không có. Nhà trường, chính quyền địa phương cũng chẳng giúp được gì nhiều cho các em. Chỉ hy vọng Nhà nước hoặc các nhà hảo tâm nào đó giúp cho các em đỡ khổ!”.
Xã Huổi Luông có 22 bản, không kể bản trung tâm (Pô Tô). Bản nào gần nhất cũng phải đi bộ mất vài giờ đồng hồ mới tới được; thế nhưng khát khao làm chủ con chữ, nuôi dưỡng ước mơ đã đưa các em học sinh từ các bản về đây trọ học. Khi chúng tôi đến, lượng học sinh trọ học ở đây là hơn 70 em. Con số này sẽ tăng lên gấp đôi khi năm học mới bắt đầu vì hiện các em còn chưa xuống trường đông đủ. Tôi không thể hình dung được khi vào năm học các em học sinh ở đây sẽ sống thế nào bởi hiện nay nhà trường chỉ có 5 phòng ở bán trú. Số phòng đã ít, diện tích cũng không lớn. Anh Nguyễn Văn Duy ước tính diện tích sử dụng của mỗi phòng chỉ được khoảng 13m2 trong khi phải kê tới 8 chiếc giường tầng (ở được 16 người). Thế nhưng như vậy vẫn là chưa đủ bởi năm nay sẽ có khoảng 150 học sinh. Như vậy trung bình mỗi phòng sẽ phải “tải” 50 em học sinh trong diện tích ấy.
Những chiếc giường cũ kỹ, nguyên liệu không bền nên chỉ mới vài năm sử dụng giát đã bị gẫy, bung, nhiều chiếc còn bị nứt mộng, gẫy thang… Thiếu chỗ ở, trong khi nhà trường cũng chẳng có nguồn nào để bổ sung nên các em học sinh phải tự sửa chữa giường để ngủ. Nhìn tấm giát giường đều tăm tắp, từng thanh tre, dây ràng cũng rất khéo, đều tay, cách đánh mắt tre, tôi cứ ngỡ là các thầy cô giáo làm cho. Nhưng đó là do các em tự làm. Tại đây, các em học sinh vẫn tự truyền tay nhau cách làm giát giường mà người làm giỏi nhất là em Lý A Di (lớp 9B1). “Thiếu giường quá! Các em trong bản không có giường ngủ nên em làm đỡ thôi” – em Di nói. “Tre này các thầy cô làm nhà bếp thừa nên em xin về tận dụng còn dây đồng để ràng thì em lấy ở… hố rác. Mấy cái dây điện của người dân vứt ngoài hố rác, em nhặt về, đốt đi lấy lõi để dùng. Làm cái giường này cũng lâu lắm đấy anh ạ. Em mất cả ngày mới làm được một cái cho một em trong phòng. Hôm qua cũng mới làm xong một cái nữa cho một em ở bên phòng nữ nữa”.
Trong cuộc nói chuyện với các em, tôi chẳng nghe được “mỹ từ” nào của các em nói về quyết tâm học tập vươn lên nhưng việc các em biết khắc phục khó khăn bằng mọi thứ đã thay cho lời khẳng định rằng các em sẽ quyết tâm theo đuổi nghiệp đèn sách.
Hôm nay em không ăn cơm!
Các em học sinh ra đây học là cả một sự nỗ lực, cố gắng lớn, không chỉ với các em mà còn với gia đình. Đa số học sinh ở đây đều có hoàn cảnh gia đình khó khăn nhưng vì tương lai, các em đã không ngại khó, ngại khổ, vượt qua mà thêu dệt ước mơ.
 |
Bữa cơm đạm bạc của các em học sinh trường THCS Huổi Luông.
|
Khi chúng tôi đến, các em học sinh ở đây đang chuẩn bị bữa cơm chiều. Một gian nhà tạm khá rộng, nền đất, tường thưng bằng tôn lợp là khu nhà bếp của các em. Thầy giáo Nguyễn Văn Duy – Hiệu trưởng nhà trường cho biết: “Năn nỷ, kêu gào mãi xã mới giúp làm gian nhà này đấy. Thực ra thì tấm lợp mái và tôn thưng tường này đều là đồ… phế liệu từ các công trình trong xã. Để có chỗ cho các em học sinh nấu ăn, chúng tôi phải xin mãi xã mới cho chỗ tấm lợp này để dựng nhà. Những thứ khác thì nhà trường tự lo”. Trên cái nền đất mới tôn còn ẩm, các em học sinh tự kê bếp bắc kiềng khắp nhà. Ba, bốn cục đá chụm lại là thành cái bếp. Em nào may mắn hơn thì xin được vài mẩu sắt thừa từ các công trình xây dựng của xã mà làm kiềng. Đến giờ “nổi lửa”, cả chục cái bếp cùng nhả khói mù mịt. Trên mỗi bếp là cái nồi nhỏ tí xíu như của những cặp vợ chồng mới ở riêng, đen nhẻm khói than. Cuộc sống của gia đình khó khăn thì những bữa cơm như thế này cũng vô cùng đạm bạc. Tò mò tôi mở vung một cái xoong trên bếp của em Liều A Thề (lớp 7A3, ở bản Pờ Ngài), em bẽn lẽn quay mặt đi. Chắc em ngại bởi trong nồi xoong của em chỉ có rau cải xanh xào không mỡ, không dầu. Em Giàng A Chu học cùng lớp giãi bầy: “Cá khô thì đắt lắm anh ạ! Cá vụn vụn thì 3.000 đồng, cá lành, cá cơm thì 4.000 một lạng. Ở đây nhà bạn nào giàu mới dám mua thôi”. Trong câu chuyện tôi chỉ thấy các em nói về món cá khô như nhắc tới sơn hào hải vị, chắc hẳn đó đã là món thượng hạng của các em. Khi đang nói chuyện, có ai đó ở góc bếp buột miệng nho nhỏ: “Ước gì mỗi tháng cả phòng được ăn một bữa “đại tiệc cá cơm”, mỗi người chỉ cần 3 con bằng ngón tay cũng được”!.
Ở đây mỗi phòng là một tập thể học sinh của một bản, cùng quê, cùng dân tộc, cùng phong tục tập quán. Tôi vào thăm phòng của các học sinh ở bản Pờ Ngài khi các em đang ăn tối. Căn phòng chật hẹp. Khoảng giữa phòng là nơi sinh hoạt chung của mười mấy học sinh, các em phải chia nhau ăn từng đợt mới có chỗ. Tôi đã từng được xem nhiều đoạn phim nói về sự khó khăn nhưng chưa khi nào tôi có cảm giác bữa cơm ngon như ở đây. “Thực đơn” bữa này chỉ có cơm và rau xào cùng với một bát ớt xanh dầm với muối trắng. Mỗi em học sinh một nồi cơm nho nhỏ, còn rau thì vài em cùng góp tiền mua và nấu chung một nồi. Mỗi em một thìa, chẳng cần bát các em cứ thế xúc cơm, lấy rau ăn rất ngon lành. Chỉ một lát cơm và rau đã hết, những ánh mắt nhìn vào nồi cơm, nồi rau tỏ vẻ thèm thuồng cứ ám ảnh tôi mãi.
Anh Nguyễn Văn Duy buồn bã: “Thế vẫn là tốt đấy anh ạ. Có khi có em không về nhà lấy gạo kịp còn chẳng có cơm mà ăn. Tại đây, một gói mì tôm có thể là một bữa thịnh soạn với các em rồi”.
Thăm phòng các em học sinh nữ, tôi ngạc nhiên vì có rất ít em ăn cơm còn đa số ngồi đọc sách, thêu thùa. Em Tẩn Thị Dung (lớp 6A4 ở bản Na Sa Phìn) nói: “Hôm nay em nhịn ăn! Chúng em mới xuống còn nhớ nhà nên chẳng muốn ăn cơm”. (Còn một lý do khác các em không dám nói nhưng em Giàng A Chu nói nhỏ với tôi: “Các em ấy chưa về lấy gạo được!”).
Em muốn làm cô giáo
Khu giảng đường đã vắng tanh nhưng tôi vẫn nghe tiếng lật giấy, tiếng lách cách của bút và thước. Trên lớp học, em Vừ A Dế (lớp 9B) đang cặm cụi bên trang sách. Em tập trung tới mức tôi tới gần từ khi nào em cũng không hay. Em đang tìm tài liệu cho bài kiểm tra môn Lịch sử sắp tới. Em bảo: “Em thích học nhất là môn này đấy. Sau này lớn em muốn được trở thành giáo viên dạy môn Lịch sử vì em muốn ai cũng biết về quá trình chiến đấu, dựng nước và bảo vệ đất nước của cha ông, của dân tộc Việt Nam. Học thì khó đấy nhưng em chỉ cố thôi!”. Chỉ mấy câu nói đơn giản mà sao tôi tin thế? Tôi đinh ninh rằng khoảng 10 năm nữa thôi, người ta sẽ chào cậu bé đang ngồi đây với cái tên thật trìu mến Thầy giáo Vừ A Dế.
Còn cô bé Tẩn Thị Dung lúc nào cũng líu lo ca hát (ngay cả khi nhiều ngày không ăn tối) cũng bộc bạch ước mơ: “Em thích múa này, em thích cả hát nữa, em cũng thích được chơi đàn Piano như các bạn ở miền xuôi mà em xem trên ti vi ấy. Sau này em chỉ muốn làm cô giáo dạy âm nhạc thôi”.
Không tự tin như các bạn, em Giàng A Chu e dè: “Em chỉ sợ học không tốt thôi. Nếu học tốt sau này em sẽ làm công an, bắt hết bọn buôn bán thuốc phiện, bắt cóc trẻ em đi…”. Tôi đùa: “Thế bố mẹ em không bảo em ở nhà lấy vợ, làm nương à?” – “Bố mẹ không bảo đâu. Nhưng nếu bảo em cũng cứ đi học. Đi học mới làm công an được!”.
Chia tay các em học sinh bán trú khi trời đã nhá nhem, những bóng đèn tuýp đã đen hai đầu ở phòng các em tù mù nhờ nhạt sáng. Ấn tượng đọng lại trong tôi là những chiếc nồi cơm đen nhẻm đã hết đến hạt cuối cùng, tấm giát giường làm bằng… phế liệu, những nụ cười bẽn lẽn khi kể về những ước mơ… Đứng ở cổng trường tôi nghe thanh âm rộn ràng của cuộc sống. Đâu đó từ phía khu nhà bán trú vọng ra tiếng hát còn đậm thổ âm của đồng bào nơi đây: Cháu vẽ ông mặt trời, miệng ông cười thật tươi… Tôi tin rằng bức tranh mà các em đang vẽ ngày mai sẽ tươi sáng hơn rất nhiều.
Bài và ảnh: Khánh Kiên