Bài 5: Thành tựu hôm nay, sức bật ngày mai
(Tiếp theo và hết)
QĐND - Với sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội, nhân dân cả nước và các tổ chức quốc tế, cuộc sống của đồng bào Khơ-me miền Tây Nam Bộ đã có sự thay đổi nhanh chóng. Từ những vùng đất, phum, sóc nghèo năm xưa, giờ đã trở thành những khu dân cư, khu sản xuất nông nghiệp trù phú, góp phần tạo sức bật phát triển mạnh mẽ trong tương lai.
Nhân dịp kỷ niệm 37 năm Ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đồng chí Nguyễn Phong Quang, Phó trưởng ban Thường trực Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ đã có buổi trả lời phỏng vấn phóng viên Báo Quân đội nhân dân xoay quanh vấn đề này.
Phóng viên (PV): Đề nghị đồng chí cho biết, việc triển khai thực hiện các chính sách của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào Khơ-me sinh sống ở vùng ĐBSCL thời gian qua?
 |
|
Đồng chí Nguyễn Phong Quang.
|
Đồng chí Nguyễn Phong Quang: Từ năm 2005 trở về trước, thực hiện các Nghị quyết, chính sách về dân tộc và tôn giáo của Đảng và Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ, đầu tư phát triển kinh tế-xã hội (KTXH) trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có đồng bào Khơ-me miền Tây Nam Bộ như: Chương trình 134; Chương trình 135 giai đoạn 1; Chương trình xây dựng trung tâm cụm xã; Chính sách trợ giá, trợ cước các mặt hàng thiết yếu; Chính sách hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi; Chính sách hỗ trợ hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn; Chính sách hỗ trợ tập vở cho học sinh dân tộc thiểu số nghèo; Chính sách đối với trường dân tộc nội trú; Chính sách cử tuyển vào các trường ĐH, CĐ, THCN và dạy nghề…
Từ năm 2006 đến nay, hàng loạt các chính sách chuyển tiếp đã được thực hiện khá hiệu quả để phát triển KTXH cho đồng bào như: Quyết định 74, Quyết định 167, Quyết định 289, Quyết định 32, Quyết định 126, Quyết định 102,… nhằm hỗ trợ đất ở, nhà ở, đất sản xuất, cung cấp nước sạch, vệ sinh môi trường, chuyển đổi ngành nghề sản xuất, hỗ trợ định canh định cư, khám, chữa bệnh, phát triển văn hóa, giáo dục…
PV: Cụ thể các chính sách ấy đã được triển khai như thế nào?
Đồng chí Nguyễn Phong Quang: Cho đến những ngày đầu tháng 5 này, Nhà nước đã chi hàng nghìn tỷ đồng để giúp bà con có nhà ở, có đất sản xuất, có tiền vốn để phát triển kinh tế gia đình và bảo tồn, phát triển văn hóa, giáo dục (trong đó tiền hỗ trợ để mua đất ở, đất sản xuất, hỗ trợ làm nhà và hỗ trợ nước sinh hoạt là 793,5 tỷ đồng giúp cho gần 6000 hộ có đất ở, 4.800 hộ có đất sản xuất). Riêng trong đợt Triển lãm - Hội chợ thành tựu 10 năm xây dựng và phát triển vùng ĐBSCL, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại đã trao 67 căn nhà tình nghĩa (mỗi căn 30 triệu đồng) cho đồng bào Khơ-me nghèo trong vùng xây dựng nhà ở, ổn định cuộc sống. Thời gian qua, Nhà nước cũng chi hàng trăm tỷ đồng để hỗ trợ kinh phí giải quyết việc làm, đào tạo nghề, giúp 64.200 người có công ăn việc làm, được đi học nghề và chuyển đổi nghề, 40.500 lượt hộ được vay vốn sản xuất. Ngoài ra, các địa phương đã giải ngân được gần 33 tỷ đồng để hỗ trợ 177.000 hộ đồng bào Khơ-me nghèo mua dầu hỏa thắp sáng, lắp công tơ điện sinh hoạt. Ngoài ra, những hộ đồng bào Khơ-me nghèo, có đời sống khó khăn, còn được vay vốn để phát triển sản xuất, trợ cấp khó khăn đột xuất…
PV: Với sự quan tâm to lớn như thế, đời sống của bà con Khơ-me đã có sự đổi thay rất lớn?
Đồng chí Nguyễn Phong Quang: Phải nói rằng, các chính sách của Đảng, Nhà nước đã giúp đời sống của bà con thay đổi lớn. Tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào Khơ-me giảm từ 40% năm 2006 xuống còn 24% vào năm 2011. Số hộ nghèo hiện chỉ ở mức 27% so với tổng số hộ Khơ-me toàn vùng, gần 30% số hộ Khơ-me đang vươn lên làm giàu. Tỷ lệ hộ được sử dụng điện là 72%, được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh là 71%. Hơn 90% đường giao thông nông thôn đến các phum, sóc được nhựa hóa, hoặc bê tông hóa, 63% số hộ xóa được nhà tạm, nhà tranh, vách lá. Nhà nước chi 833,5 tỷ đồng để hỗ trợ tiền khám, chữa bệnh, mua bảo hiểm y tế.
PV: Những chính sách của Đảng và Nhà nước không chỉ giúp bà con Khơ-me có cuộc sống tốt đẹp hơn trước, mà còn giúp họ nâng cao trình độ dân trí, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa độc đáo của dân tộc. Điều này được thể hiện như thế nào thưa đồng chí?
Đồng chí Nguyễn Phong Quang: Phải khẳng định lại một điều: Đồng bào Khơ-me Nam Bộ là công dân của nước CHXHCN Việt Nam, là một bộ phận không thể tách rời khỏi đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Đồng bào Khơ-me luôn gắn bó và có nhiều công lao đối với sự nghiệp cách mạng, cũng như sự phát triển của ĐBSCL. Miền Tây Nam Bộ có 92 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, 11 Anh hùng LLVT nhân dân, 2.863 liệt sĩ, 1.029 thương binh, bệnh binh là người Khơ-me, hàng chục nghìn gia đình có công với cách mạng. Đồng bào cũng có nền văn hóa phong phú, đa dạng. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến sự phát triển chung trong cộng đồng bà con Khơ-me. Ngày 18-4-1991, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) đã ban hành Chỉ thị 68-CT/TW về công tác ở vùng đồng bào Khơ-me. Trên cơ sở này, một số địa phương đã thành lập Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước ở 3 cấp (tỉnh, huyện, thị xã-xã); công nhận 5 chùa Khơ-me là di tích cấp quốc gia, 11 chùa là di tích cấp tỉnh; hỗ trợ 150 chùa sửa chữa khang trang, đẹp hơn trước; tạo mọi điều kiện thuận lợi để các vị chức sắc tôn giáo và phật tử hoạt động tôn giáo theo đúng pháp luật, tham gia công tác tuyên truyền, giáo dục tại địa phương. Trong các dịp lễ, Tết như: Chôl Chnăm Thmây, Sen Đôl Ta, Óc Om Bóc..., các cấp chính quyền, các đoàn thể và lực lượng vũ trang đều đến thăm hỏi, chúc mừng, tặng quà các chùa và bà con. Chính quyền các địa phương còn quan tâm đặc biệt đến công tác giáo dục, tạo nguồn nhân lực trong cộng đồng bà con Khơ-me; từ đó, đồng bào rất phấn khởi và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng cùng chung sức, chung lòng xây dựng quê hương ĐBSCL giàu đẹp.
PV: Sự quan tâm về giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực đã đạt được những kết quả gì?
Đồng chí Nguyễn Phong Quang: Thời gian qua, các tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL đã mở được 1.543 lớp cho 73.088 lượt người theo các dự án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở và cộng đồng cho bà con Khơ-me. Hơn 100.000 học sinh Khơ-me được hỗ trợ về học phí, dụng cụ học tập; gần 4000 học sinh được cử tuyển đi học tại các trường ĐH, CĐ, THCN và dạy nghề. Trong năm học 2010-2011, toàn vùng có 25 điểm trường dân tộc nội trú (dạy cả bằng tiếng phổ thông và tiếng Khơ-me) với 220 lớp học và gần 7000 học sinh. Những trường này luôn được quan tâm về kinh phí giáo dục, bồi dưỡng, sửa sang trường lớp… hàng trăm tỷ đồng. Hiện nay, các cấp, các ngành đều ưu tiên, quan tâm đề bạt, bổ nhiệm các nhân tố tích cực là người Khơ-me vào các vị trí lãnh đạo quan trọng, có kế hoạch đào tạo nguồn để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng.
PV: Trong thời gian tới, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục có nhiều chính sách để nâng cao chất lượng sống và sự phát triển trong cộng đồng bà con Khơ-me. Đó có phải là động lực để tạo nên “sức bật” trong đời sống xã hội của đồng bào?
Đồng chí Nguyễn Phong Quang: Đó chắc chắn là động lực để tạo nên sự phát triển nhanh, bền vững trong đời sống xã hội của đồng bào. Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ cùng với các địa phương trong vùng tiếp tục triển khai thực hiện tốt những chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế - xã hội đã được ban hành; đồng thời trong quá trình thực hiện, nếu phát sinh những vấn đề khó khăn, vướng mắc hoặc không phù hợp với tình hình thì kiến nghị, đề xuất với Đảng, Nhà nước bổ sung, sửa đổi. Đặc biệt, nghiên cứu đề xuất với Đảng, Nhà nước tiếp tục có những cơ chế, chính sách đặc thù về phát triển kinh tế - xã hội trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và đồng bào dân tộc Khơ-me nói riêng trong điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng, gắn với công tác tuyên truyền và vận động để đồng bào phát huy tính chủ động, sáng tạo của mình, tránh tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Có như vậy, kinh tế - xã hội trong vùng đồng bào dân tộc Khơ-me mới phát triển nhanh và bền vững; các chính sách của Đảng, Nhà nước mới phát huy tác dụng và mang lại hiệu quả cao.
PV: Xin chân thành cảm ơn đồng chí!
BÁ HIÊN - PHI HÙNG - VĂN XÂY (thực hiện)