Tỉnh Nghệ An có 82km đường bờ biển và hiện có 5.083,8ha đất lâm nghiệp được quy hoạch rừng PHVB. Các cơ quan, đơn vị quản lý rừng bước đầu đã làm tốt công tác tuyên truyền, hướng dẫn, kiểm tra, chỉ đạo, thực hiện các dự án phục hồi, trồng mới rừng PHVB.
Dọc bờ biển huyện Diễn Châu (Nghệ An), những khu rừng phi lao, bạch đàn, keo, tràm, đước, bần, sú… hình thành trở thành tấm "lá chắn xanh" vững chắc ngăn gió bão và xâm thực của biển. Ông Trần Anh Dũng, Hạt phó Hạt kiểm lâm huyện Diễn Châu, cho biết: “Năm qua, trên địa bàn huyện Diễn Châu đã trồng mới được gần 10ha rừng phi lao, bạch đàn… Tại các thôn, xóm đều thành lập tổ quản lý và bảo vệ rừng ven biển, ý thức người dân trong việc bảo vệ và phát triển rừng được nâng cao”.
 |
Khu rừng ngập mặn tại huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. |
Xác định tầm quan trọng của rừng PHVB trong tình hình biến đổi khí hậu, tại Nghệ An, toàn bộ diện tích có rừng phía đông Quốc lộ 1A được tỉnh quy hoạch vào rừng PHVB. Ông Đặng Xuân Minh, Phó chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Nghệ An nói: “Rừng PHVB tại Nghệ An phân bố chủ yếu tại các huyện Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc, thị xã Cửa Lò, thị xã Hoàng Mai, TP Vinh. Cơ bản diện tích rừng phòng hộ đã được trồng mới theo các nguồn vốn của Nhà nước và các dự án của các tổ chức phi chính phủ. Tuy nhiên, diện tích rừng PHVB được trồng mới không nhiều và công tác này còn gặp nhiều khó khăn”. Ông Minh cho biết thêm, khó khăn nhất là diện tích rừng PHVB trên địa bàn manh mún nên để quy hoạch một vùng rừng phòng hộ có quy mô lớn khoảng vài chục héc-ta là rất khó. Trồng rừng ven biển phải đầu tư lớn mới trồng được nhưng hiện nay Nhà nước vẫn chưa có chính sách riêng cho việc trồng rừng PHVB, chỉ xếp chung vào mức bình quân trồng rừng phòng hộ là 30 triệu đồng/ha. Trong khi đó, trồng rừng PHVB trên thực tế khảo sát phải lên đến 100 triệu đồng/ha, bởi cần chi phí để xây dựng hàng rào bảo vệ và do điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu khắc nghiệt nên tỷ lệ sống thấp, thường xuyên bị gãy đổ…
Tại Hà Tĩnh, rừng PHVB đã được triển khai bảo vệ và phát triển với nguồn vốn của các tổ chức phi chính phủ, như: Tổ chức Hành động và Phục hồi rừng ngập mặn; Hội Chữ thập đỏ Nhật Bản; Tổ chức Chống đói nghèo của Anh và Ireland; Quỹ Cứu trợ nhi đồng Anh... được triển khai từ năm 1991 đến nay đã góp phần đáng kể vào việc nâng cao diện tích rừng phòng hộ. Tuy nhiên, theo một số thống kê của Hội Chữ thập đỏ tỉnh Hà Tĩnh và Chi cục Lâm nghiệp tỉnh Hà Tĩnh, hiện nay số diện tích rừng còn sống chỉ khoảng 55-60%.
Trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, những khu vực trước đây có diện tích rừng PHVB khá lớn thì nay đã suy giảm hoặc không còn nữa. Điển hình là sự mất đi của 389,22ha rừng ngập mặn ở TP Hà Tĩnh, 355,53ha ở huyện Thạch Hà, 338,45ha ở huyện Kỳ Anh và 268,94ha ở huyện Nghi Xuân. Phần lớn diện tích đất rừng ngập mặn đã bị thay thế bởi các loại hình sử dụng đất khác.
Lý giải về chiều hướng suy giảm diện tích rừng PHVB, Thạc sĩ Lê Ngọc Nhân, Phó trưởng phòng Quản lý khoa học, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Hà Tĩnh, cho biết: “Do sức ép của phát triển kinh tế-xã hội, diện tích rừng PHVB được chuyển đổi để nuôi trồng thủy sản, dịch vụ du lịch, xây dựng cơ sở hạ tầng dân cư, đê điều... Đồng thời, trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, thiên tai bão lũ thường xuyên xảy ra đã tàn phá nhiều diện tích rừng PHVB”.
Hiện nay, việc quản lý khu vực rừng PHVB đang theo nhiều mục đích khác nhau: Bảo vệ rừng, nuôi trồng thủy sản, phát triển du lịch, xây dựng đê điều... nên tình trạng chồng chéo trong quản lý đang là vấn đề lo lắng cho công tác quản lý, bảo vệ và phát triển. Việc giao đất, giao rừng phòng hộ cho cộng đồng thôn xóm, các tổ chức xã hội, chưa được các cấp chính quyền quan tâm thực hiện. Các dự án, chính sách riêng cho công tác bảo vệ và phát triển rừng PHVB tại Bắc Trung Bộ hầu như chưa có. Công tác trồng rừng PHVB còn tồn tại nhiều trở ngại, như: Thiếu thông tin về điều kiện thổ nhưỡng; thiếu các nghiên cứu cơ sở kỹ thuật trồng hỗn loài, kỹ thuật thâm canh để trồng rừng ven biển; thiếu các chính sách hỗ trợ người dân trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng.
Ông Đặng Xuân Minh kiến nghị: “Nhà nước cần có quy hoạch cụ thể, bảo đảm giữa việc xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế-xã hội với diện tích đất rừng phòng hộ; nghiên cứu chính sách cho vay vốn phát triển rừng PHVB; phát triển các hình thức nông-lâm-ngư kết hợp, tăng cường các hoạt động phổ biến và hướng dẫn kỹ thuật lâm sinh về trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng phòng hộ”.
Thạc sĩ Lê Ngọc Nhân nêu ý kiến: “Nhà nước cũng cần xem xét đầu tư, có chính sách riêng bằng cách dần giao đất rừng PHVB cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đối với diện tích rừng và đất rừng phong hộ chưa có chủ quản lý, thay thế cơ chế khoán bằng tiền như hiện nay. Các cấp, các ngành cần tăng cường sự phối hợp, quan tâm hơn nữa trong bảo vệ và phát triển rừng PHVB”.
Theo các nhà nghiên cứu, một khu rừng PHVB có chiều rộng 100m có thể làm giảm 50% chiều cao của sóng triều và giảm 50% năng lượng của sóng biển. Vì vậy, việc bảo vệ và phát triển rừng PHVB là giải pháp tối ưu trong ứng phó với biến đổi khí hậu một cách bền vững. Rừng PHVB cần được sự quan tâm đúng mức, xứng đáng với tên gọi “lá chắn xanh” bảo vệ đất liền.
Bài và ảnh: HOÀNG HOA LÊ