QĐND Online – Câu chuyện giáo viên đi tìm học sinh, thậm chí phải “mượn” các em từ bố mẹ mới có thể đưa tới lớp, khiến tôi tò mò muốn biết nơi đó ở đâu, có gì mà lại đặc biệt thế…
Đến với xã vùng cao Sùng Đô, huyện Văn Chấn, Yên Bái, chúng tôi tưởng như sẽ phải lỗi hẹn với Giàng Pằng – một trong hai điểm trường khó khăn nhất của Trường Tiểu học và THCS Sùng Đô – khi cơn mưa đêm khiến bánh xe ngập lún trong bùn đất, chỉ muốn xoay ngang.
 |
| "Hành trang" đến trường của các em chỉ có chiếc cặp lồng cơm cho bữa trưa. |
Đường “lên trời”
Chỉ cách trung tâm huyện 40km, nhưng Giàng Pằng dường như là cả một thế giới cách biệt, đầy hoang sơ. Nhìn con đường dài hun hút lầy lội trong bùn đất hẳn nhiều người lần đầu đến với Sùng Đô sẽ nản lòng, nhưng với quyết tâm lên thăm các thầy cô giáo tại điểm trường lẻ Giàng Pằng, chúng tôi “miệt mài” vượt qua 40km trong nửa ngày trời.
Thật khó có thể chinh phục cung đường này nếu không có sức khỏe dẻo dai và kinh nghiệm. Ẩn dưới lớp bùn đất nhão nhoét là những hòn đá trơn trượt, yếu tay lái một chút thôi là “vồ ếch” ngay lập tức. Dần mình trên chiếc xe Win suốt 4 giờ đồng hồ thì đến địa phận xã Nậm Mười. Từ đây, thử thách chinh phục đường “lên trời” bắt đầu. Để vượt qua được quãng đường 9km này, trong thời tiết khô ráo cũng mất khoảng 2 giờ đồng hồ “vật lộn” với đèo dốc cheo leo, một bên là vách núi dựng đứng, một bên là vực sâu hun hút, bánh xe trước lúc nào cũng muốn nhấc khỏi mặt đất vì độ dốc quá lớn. Trên con dốc ngoằn ngoèo, khúc khuỷu liên tục mà người dân ở đó gọi là “dốc 3 tầng”, những vệt bánh xe sâu thẳm, dài lê thê, đặt 2 bánh xe máy vào rãnh đó thì yên tâm không sợ bị đổ xe, đường còn lại chỉ vừa cho 2 người đi bộ.
“Đường hôm nay đẹp chán! Ngày mưa, xe máy chỉ đến được trung tâm xã Nậm Mười, 9km còn lại, giáo viên phải đi bộ mất nửa ngày”, chị Hoàng Thị Thuận, Phó hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Sùng Đô, dẫn tôi lên Giàng Pằng chia sẻ.
Sau bao cố gắng, cuối cùng Giàng Pằng ở độ cao gần 2.000m so với mực nước biển, trên đỉnh núi cao lạnh giá cũng hiện ra. Giữa những thôn, bản heo hút trên núi rừng có một lớp học với những giáo viên ngày đêm “cắm bản” để gieo cái chữ, đem ánh sáng tri thức đến cho con em đồng bào dân tộc Mông.
 |
| Lớp học được quây bạt xung quanh để chắn gió; buổi trưa các em nằm ngủ trên những tấm gỗ kê sát đất. |
Cho cô “mượn” vài hôm thôi nhé!
Thấp thoáng sau những cây chè cổ thụ, hiện lên một căn nhà gỗ ghép và ngôi nhà cấp bốn ẩm thấp. Đây chính là nơi dạy học; đồng thời là chỗ ở của 3 cô giáo trẻ Trần Thị Thu Hiền, Phạm Thị Hạnh và Nguyễn Thị Kim Thoa. Các cô, người ở Nghĩa Lộ, người ở huyện Văn Chấn, nhà cách trường chỉ từ 25 đến 50km, nhưng tất cả phải sống biền biệt xa nhà hàng tháng trời.
Cô giáo Hạnh (25 tuổi), có 5 năm công tác ở Sùng Đô nhưng đã có “thâm niên” “cắm” ở Giàng Pằng 2 năm. Cô kể: Mỗi năm, giáo viên thay phiên nhau lên đây dạy. Đường đi khó khăn, điều kiện sinh hoạt thiếu thốn nên thanh niên xung phong đi trước. “Nhớ nhà, nhớ 2 con còn nhỏ lắm, nhưng so với những giáo viên có tuổi hoặc đang nuôi con nhỏ, có bố mẹ già đang ốm đau, mình lại nhận nhiệm vụ thêm một năm nữa”.
Giàng Pằng là điểm trường khó đi và khó khăn nhất nên Trường Tiểu học và THCS Sùng Đô ưu tiên đặt điểm trường lẻ ở đây, phục vụ cho hơn 10 trẻ của lớp mầm non và 19 học sinh của lớp ghép 1+2.
Hai lớp học nằm nép bên nhau trong màn sương giá lạnh, cuộc sống, môi trường dạy và học của cô và trò chỉ vẻn vẹn quanh vài cái bàn, ghế gỗ đã cũ mèm. Ấy vậy mà khi nói về khó khăn, chẳng cô nào phàn nàn về cơ sở vật chất dạy học, điều kiện sống thiếu thốn mà chỉ tâm sự giáo viên trẻ, mới lên vùng cao, khó khăn nhất là bất đồng ngôn ngữ và vận động học sinh đến lớp.
Người dân tộc Mông rất thật thà, chăm chỉ, công việc chính của họ là làm nương, nhưng lại không áp dụng khoa học kỹ thuật trong trồng trọt, chăn nuôi nên hiệu quả lao động không cao. Dù lên nương từ sáng sớm, đến tối mịt mới trở về nhà nhưng cuộc sống của họ vẫn đạm bạc cơm rau muối. Chị Hoàng Thị Thuận nhớ lại lần nhóm giáo viên các chị đến từng nhà vận động, phân tích để họ nhận thức việc học là quan trọng. Có người hiểu ra thì cho con đến lớp, nhưng cũng có nhà, thấy cô giáo đến nhiều quá, họ đành "cho cô mượn con vài hôm thôi nhé!”.
“Em còn đi chăn trâu đã, ngày mai em mới đi học”, hay “em còn phải trông em cho bố mẹ đi thu ngô đã, mai em mới đi học”… là những câu trả lời tuy hết sức chân thật của các em nhưng khiến chúng tôi cay mắt. Biết đến bao giờ cuộc sống của họ mới đủ ăn, để họ nghĩ về cái chữ?
Năm đầu tiên lên Giàng Pằng, cô giáo Nguyễn Thị Kim Thoa, mới 20 tuổi, chưa lập gia đình, tâm sự, lần đầu tiên lên Giàng Pằng, cô không dám đi xe máy một mình vì đường quá nguy hiểm, lên đến nơi phải nghỉ ngơi mất nửa ngày vì quá đau mỏi. Cũng như cô Thoa, năm học 2013-2014 này, cô giáo Trần Thị Thu Hiền, sinh năm 1989, là người “mới toanh” bước chân lên Giàng Pằng. Ngoài học trò thì tối tối, cô bầu bạn cùng cây kim và sợi chỉ. Giàng Pằng chưa có điện lưới, nên cô Hiền và bà con quanh bản kẹp chiếc đèn pin ở cổ “thưởng thức” thú vui duy nhất là ngồi thêu váy “mèo”. Cặm cụi soi từng mũi thêu cũng là lúc cô làm quen với việc học tiếng Mông.
Nhìn gương mặt xanh xao của cô giáo Hiền mới biết cách đây ít lâu, cô bị ốm, người gầy chỉ nhìn thấy mắt. Hôm ấy, Ban giám hiệu lên thăm, thấy thương quá, gọi cô theo đoàn cùng về để thuốc thang, vậy mà cô từ chối không muốn về. Phần vì sợ không có người dạy, học sinh sẽ lại nghỉ học, phần vì khi khỏi rồi sẽ không biết đi cùng ai để lên trường bởi đoạn đường quá hiểm trở.
 |
| Cô bé Vàng Thị Thao, 5 tuổi ngày ngày cõng em cùng đi học. |
Ngày 20-11 không hoa
Hoa và quà dành cho cô giáo nhân ngày Nhà giáo Việt Nam là một thứ gì đó xa lạ với cả cô và trò nơi đây. Nếu nhìn thấy cảnh những đứa trẻ đang tuổi học mẫu giáo mà ngày ngày phải cõng em đi học - vừa học vừa trông em; khi em thức dậy, cô giáo kiêm luôn việc dỗ em, hẳn nhiều người sẽ tìm được câu trả lời.
Việc tặng hoa cho cô giáo nhân ngày này là việc học sinh chưa từng biết đến. Đối với họ, việc thể hiện tình cảm rất tự nhiên, chỉ khi quý cô giáo thì đi nương về, nếu mẹ mang theo một bề rau thì thế nào ngày hôm sau con đi học sẽ mang theo một nắm đưa cô giáo. Hay đến ngày Tết của người Mông, cô giáo sẽ được tặng một cái bánh nếp, bánh dày.
Không hoa, không tuyên dương, khen thưởng, Ngày 20-11 cũng như bao ngày bình thường khác, cứ thế trôi qua với các cô giáo ở vùng cao Sùng Đô. Niềm hạnh phúc của họ đơn giản chỉ là: “Chúng tôi không đòi hỏi gì hơn là việc học sinh đi học đủ, đó là “món quà” khiến cô giáo mừng nhất. Cảm ơn các em vì đã đi học!”.
Bài, ảnh: THU HÀ