Cha con ông Tuấn luôn cùng nhau lao động làm giàu.

Phường Đồng Tiến, từng là điểm nóng về tệ nạn ma túy của thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình. Đã có nhiều gia đình tan cửa, nát nhà vì có con em sa vào con đường nghiện ngập. Bởi vậy, chuyện ông thương binh, cựu chiến binh Nguyễn Ngọc Tuấn, người rất giỏi trong làm ăn kinh tế nay lại tự tay mình cai nghiện thành công cho đứa con trai út đã trở thành một tấm gương được chính quyền và bà con xóm phố thường xuyên nhắc tới.

Đến cây số hai rưỡi trên quốc lộ 6, tính từ Hòa Bình đi Hà Nội (khu Chó Cheo), hỏi nhà ông Nguyễn Ngọc Tuấn, thương binh thì ít người biết, nhưng nếu hỏi ông Tuấn “tăm” hoặc Tuấn-Ngừng (Ngừng là tên vợ ông) thì chẳng ai xa lạ gì.

Trong ngôi nhà 2 tầng, toàn bộ tầng dưới chất đầy tăm tre và phía sau là khu vực đặt máy vò tăm, ông Tuấn vừa trông đứa cháu nội gần 4 tuổi, mà theo sự giới thiệu của ông, tôi mới biết đó là con trai của Nguyễn Ngọc Tuyến, đứa con được ông cai nghiện thành công, vừa thủng thẳng kể lại chuyện quá khứ, chuyện làm ăn. Ông bảo: Cuộc đời ông có ba cái mốc đáng nhớ đó là từ cõi chết trở về, lập nghiệp từ hai bàn tay trắng và có lẽ cam go nhất vẫn là “cuộc chiến cai nghiện” cho thằng con trai út.

Ông kể, năm 1972, lúc đó mới 20 tuổi, đang làm Bí thư đoàn thanh niên thị trấn Suối Rút của huyện Đà Bắc, thấy anh em bạn bè lần lượt ra trận cả, ông cũng giấu cha mẹ làm đơn xung phong đi bộ đội. Sở dĩ phải viết đơn tình nguyện vì ông là con trai một, thuộc diện được miễn nhập ngũ. Sau mấy tháng huấn luyện tại Yên Thủy, ông được đơn vị cho nghỉ mấy ngày về thăm nhà, sau đó cùng đơn vị lên đường vào Nam chiến đấu luôn. Ông đã cùng đơn vị tham gia nhiều trận đánh tại Lộc Ninh, Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước và Biên Hòa.

Sau hiệp định Pa-ri, ta và địch ở thế cài răng lược, bọn ngụy Sài Gòn đã mở nhiều chiến dịch đánh nống ra các vùng giải phóng. Trong một trận chiến đấu ác liệt, ông Tuấn bị thương và bị lạc đơn vị. Đơn vị cũ tưởng ông đã hy sinh nên viết giấy báo tử về quê.

Năm 1977, sau 5 năm xa cách quê hương, anh thương binh Nguyễn Ngọc Tuấn, người đã được đơn vị báo tử từ năm 1974, khoác ba lô trở về với gia đình trước sự ngạc nhiên, sung sướng và tự hào của cha mẹ, họ hàng và bà con thị trấn Suối Rút, Đà Bắc. Những câu chuyện chiến đấu anh dũng, chuyện bị thương, bị địch bắt giam cầm ở nhà lao Cần Thơ và chuyện đơn vị tưởng ông đã hy sinh nên báo tử về địa phương cùng với niềm vui sướng, hân hoan ngày đoàn tụ rồi cũng qua đi. Thay vào đó là cuộc sống gia đình với bao khó khăn chồng chất. Cha mẹ thì già yếu, ba cô em gái ăn học, kinh tế gia đình đói kém. Ông Tuấn xác định mình là lao động chính trong nhà nên phải gánh vác đủ việc, giúp đỡ cha mẹ và 3 cô em gái ăn học.

Vừa lao động, ông vừa tham gia công tác xã hội, từ xã đội trưởng đến Bí thư đoàn thanh niên rồi Ủy viên Ban chủ nhiệm HTX Lâm sản. Ở cương vị nào ông cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Năm 1979, xây dựng gia đình. Hai đứa con trai, một tên là Tuyên, một là Tuyến lần lượt chào đời. Ngày ấy, chuyện kế hoạch hóa gia đình chưa làm gắt gao lắm, nhưng ông bà đã xác định chỉ sinh hai đứa con để có điều kiện nuôi dạy chúng nên người.

Cuộc sống của họ tưởng sẽ bình yên, nhưng vì dòng điện ngày mai của Tổ quốc, họ đã nhường nhà cửa, ruộng nương cho lòng hồ thủy điện Sông Đà đi nơi khác lập nghiệp.

Không theo huyện lỵ Đà Bắc về Tu Lý, ông Tuấn cùng một số bà con Suối Rút đã đến lập nghiệp tại khu Chó Cheo này. Tiền đền bù lúc đó chỉ đủ cho ông thuê 3 chuyến ô tô chở đồ đạc về quê mới. Ngày ấy, khó khăn của thời bao cấp, nhà nào cũng chỉ là cột bương, lợp giấy dầu, còn gạo ăn không đủ phải độn thêm sắn, khoai. Vốn có kinh nghiệm và thế mạnh trong nghề kinh doanh lâm sản, ông bàn với vợ phải mở cơ sở chẻ tăm mành bán cho các đơn vị làm mành xuất khẩu.

Được bà ủng hộ, ông Tuấn ngược lên Đà Bắc, gặp dân các xã xung quanh Suối Rút, nay đã di chuyển lên cao, hợp đồng với họ tiếp tục khai thác cây nứa, cây bương, rồi xuôi về quê vợ đón thợ chẻ tăm lên truyền dạy nghề cho bà con địa phương. Ông thu mua tăm mành của bà con các xã, tập kết xuống thuyền theo đường sông về cảng Hòa Bình, giao cho các đơn vị xuất khẩu của thị xã. Dần dần, ông mở rộng các mối giao hàng về các tỉnh miền xuôi như Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình. Hằng tháng trừ tất cả chi phí, vợ chồng ông cũng thu lãi vài chục triệu đồng.

Công việc làm ăn đang thuận buồm, xuôi gió thì Liên Xô và các nước Đông Âu tan rã kéo theo sự phá sản của nghề mành xuất khẩu. Ông chuyển sang làm tăm xỉa và tăm hương và lại phải tìm mối hàng mới. Ông lại về quê vợ, đón thợ lên và bản thân ông cũng tham gia dạy bà con cách chẻ tăm xỉa, tăm hương. Sau khi bà con chẻ được tăm bán thành phẩm, ông vào thu gom, thuê xe chở về nhà để làm tiếp công đoạn vò tăm bằng máy cho nhẵn, sau đó bán buôn cho các cơ sở sản xuất tăm tre làm tiếp công đoạn cắt ngắn, ngâm tẩm, sấy và đóng thành các gói tăm nhỏ, bán cho người tiêu dùng. Khách hàng của ông chủ yếu là Hội người mù của nhiều tỉnh phía bắc từ Ninh Bình, Thanh Hóa, Nam Định, Thái Bình, Hà Nội, Hà Tây… Mỗi tháng ông xuất đi 30 đến 40 tấn tăm tre, giải quyết lao động nông nhàn cho hàng trăm người ở các xã của huyện Đà Bắc, Kỳ Sơn, thành phố Hòa Bình và tìm được đầu ra cho cây luồng. Một cây luồng nếu bán cây làm cột giá chỉ từ 7 đến 10 nghìn đồng nhưng nếu chẻ thành tăm có thể thu được từ 30 đến 40 nghìn đồng.

Ông Tuấn bảo, chuyện làm ăn của vợ chồng ông cũng tạm được, có của ăn của để. Thằng cháu đầu chịu khó học, hết cấp III rồi đi học đại học. Ông bà đâu có ngờ thằng Tuyến học hành chểnh mảng, ham vui bạn bè, thi đại học không đỗ, rồi theo chúng bạn đi làm thợ lắp điện nước ở Mai Châu. Cháu làm ở Mai Châu vài tháng thì ông phát hiện nó đã bị nghiện ma túy. Lúc đó ông tưởng như đất dưới chân mình sụt xuống. Cũng may là cuộc đời trận mạc, tù đày đã rèn cho ông một thứ thần kinh thép, chứ nếu không thì cũng gục ngã rồi.

Ông bàn với bà, xác định một mất, một còn và hạ quyết tâm phải cai nghiện cho đứa con tội nghiệp, không thể để mất con. Khác với mọi người, khi con cái mắc nghiện là họ tìm mọi cách che giấu; đằng này, ông Tuấn lại đem chuyện cai nghiện cho con ra bàn với đồng đội cũ trong Hội cựu chiến binh. Nhiều người khuyên ông nên đưa vào trại cai nghiện. Riêng ông, ông lại có suy nghĩ khác là phải tự chính tay mình cai nghiện cho con. Ông lẳng lặng đặt thợ rèn làm cho hai cái cùm chân tay và gọi thợ đến sửa lại căn buồng để cai nghiện tại nhà, rồi tìm hiểu các bài thuốc cai nghiện và quy trình cai. Kế hoạch này của ông được vợ, anh con trai cả và 3 cô em gái trong ngành giáo dục và bản thân cháu Tuyến ủng hộ, càng làm cho ông quyết tâm cao hơn. Suốt một năm trời ông nhốt đứa con trong căn buồng kín. Hằng ngày, chỉ có ông trực tiếp chăm sóc cho con ăn, đi vệ sinh, thuốc thang.

Ông tâm sự là nghĩ đến chuyện phải cùm chân, cùm tay thằng cháu Tuyến mà lòng đau như cắt. Không ngờ trước đây thằng Mỹ-ngụy nó cùm mình, tra tấn mình nay mình lại đi cùm thằng con dứt ruột đẻ ra hay sao? Nhưng nghĩ đi thì thế, nghĩ lại nếu mình không cương quyết cách ly triệt để thì khó lòng cứu con nên đành nuốt nước mắt vào trong để thực hiện cho bằng được. Lỗi cũng tại vợ chồng ông mải lo làm ăn mà sao nhãng với con nên mới đến nông nỗi này.

Tháng đầu, cơn nghiện đã làm Tuyến vật vã điên cuồng, khiến vợ chồng ông đau xé lòng. Thương con, ông nuốt nước mắt vào trong. Bằng giá nào cũng phải quyết tâm không lùi bước. Những năm tháng chiến tranh khốc liệt, cái chết cận kề và những đòn tra tấn của kẻ thù đã luyện cho ông một ý chí sắt đá. Nhiều đêm, trong phòng Tuyến vật vã, còn ông ngồi ngoài cửa, nước mắt lưng tròng, thương con lắm, nhưng ông hiểu không thể nào làm khác được. Sau vài tháng, bệnh tình của Tuyến đỡ dần, lúc đó ông mới cho xem ti-vi, đọc sách báo và dùng quạt gió.

Sau 3 tháng cắt cơn nghiện, ông tháo cùm tay cho Tuyến và mua nhiều sách báo cho con đọc. Sau khi nó đọc xong quyển Nhật ký Đặng Thùy Trâm, ông bảo với con rằng, cuộc đời chiến đấu của ông cũng chịu nhiều gian khổ như chị Trâm và còn bị nhiều đòn tra tấn trong tù nữa. Ông bị bọn chúng cùm chân tay rồi cho nằm vào chuồng cọp phơi nắng cả ngày, không được ăn, được uống gì mà vẫn chịu được, huống chi nó, tuy có bị cùm nhưng lại được bố mẹ và gia đình chăm sóc chu đáo, tận tình nên phải cố gắng mà vượt qua thôi.

Đang trong thời kỳ gian nan nhất thì cô người yêu của Tuyến từ Mai Châu xuống, thông báo cho gia đình ông biết, cái thai trong bụng cô là của Tuyến. Người cha già với đầy thương tật lại phải gồng mình lên vì đứa con hư. Ông xác định, trước mắt tập trung cai nghiện cắt cơn cho Tuyến đã, chuyện riêng đành tính sau vậy.

Sáu tháng sau, khi đã hết những cơn vật vã do thèm thuốc, ông mới hỏi chuyện con, phân tích cho con điều hơn, lẽ thiệt để cho con nhận thấy những việc làm tội lỗi mà mình đã gây ra cho bao người thân, trong đó có cô người yêu đang bụng mang, dạ chửa. Tuyến chỉ biết khóc ròng, xin cha mẹ tha thứ cho anh, cho cô người yêu tội nghiệp và nhất là đứa trẻ sắp đến ngày chào đời. Nếu được như vậy, Tuyến hứa sẽ chấp nhận mọi yêu cầu của cha mẹ, anh em.

Mọi thủ tục cưới xin ông và nhà gái đều thống nhất. Hôm cưới, chú rể được tháo cùm, tắm rửa sạch sẽ và được chính cha mình là “phù rể bất đắc dĩ” cùng ngồi xe hoa “áp tải” đến nhà gái để đón vợ. Tiệc cưới tàn, chú rể tự nguyện vào “buồng tù” để cho cha mình khóa lại. Lúc đó, ông Tuấn lại thấy cay cay nơi sống mũi và ông tin nhất định thằng Tuyến sẽ thành công. Cô dâu, như đã thỏa thuận “tự nguyện” ngủ chung với mẹ chồng và có bao của hồi môn, từ nữ trang đến tiền bạc, giao hết cho bà quản lý. Ba tháng sau, đứa cháu nội của ông chào đời, nhưng Tuyến vẫn chưa được phép gặp mặt vợ, con. Phải thêm 3 tháng nữa, khi cơn nghiện đã dứt, ông mới mở cửa thả Tuyến ra vào buổi đêm để vợ chồng chúng nó gặp nhau. Sáng ra, Tuyến lại tự vào “buồng tù” cho ông khóa cửa lại.

Qua hai năm cách ly với xã hội để cai nghiện, mọi xét nghiệm y tế của Tuyến đều cho kết quả âm tính đã đem lại niềm vui cho gia đình, họ hàng. Tuy vậy, ông Tuấn vẫn quản chặt chẽ Tuyến, không cho ra khỏi nhà, đi đâu phải có ông đi cùng. Ngay cả cô con dâu cũng không được có tiền riêng, đi chợ mua thức ăn còn thừa vài nghìn đồng cũng phải trả lại ông. Đến nay, Tuyến đã cai nghiện được gần 5 năm, sức khỏe trở lại bình thường và trở thành một công nhân lao động tốt, bốc cả một xe hàng 4 tấn không cần ai hỗ trợ, trông coi máy, giao hàng, nhận hàng suốt ngày.

Trước lúc chia tay, ông Tuấn dẫn tôi lách qua những bó tăm che chất cao ngất ở tầng 1 để ra phía sau nhà, nơi đặt máy chuốt tăm. Một căn phòng đóng kín cửa, chỉ nghe tiếng máy chạy đều đều. Sau mấy tiếng gõ cửa, một thanh niên mặc bộ bảo hộ lao động trùm kín cả đầu, chỉ hở mỗi hai con mắt, mở cửa bước ra kéo theo một quầng bụi mù mịt. Anh thanh niên đóng vội cửa và kéo mũ trùm đầu ra, nở nụ cười chào tôi. Ông Tuấn bảo cháu Tuyến nó chào anh đấy. Tôi hơi bất ngờ vì Tuyến trông rất khỏe mạnh và hiền lành với nước da trắng như con gái với khuôn mặt bầu bầu. Sau những câu chuyện xã giao, Tuyến xin phép vào trông máy tiếp. Tôi nắm chặt bàn tay đầy bụi của Tuyến và không quên nói vài lời động viên cháu. Tuyến cười vui: “Chú yên tâm, cháu đã thấm lắm rồi. Từ nay xin cạch đến già, chú ạ!”.

Tiễn tôi ra tận quốc lộ 6, khi lên xe rồi, ông Tuấn vẫn nhắc tôi là làm gì thì làm, hãy chú ý để mắt đến bọn con trẻ, kẻo lơ là một chút là dễ bị bạn bè lôi kéo lắm đấy. Nhà nào cũng nói không với ma túy thì xã hội mới hết nạn nghiện ngập được chú ạ.

NGUYỄN ĐĂNG KHOA