Cao su trên đất Lộc Ninh, Bù Đốp

Cách đây hơn 10 năm, mỗi khi nghe đến những danh từ: Bù Đăng, Bù Đốp, tôi chỉ nghĩ đến rừng hoang, đất trống. Có người đã nói: “Chỉ có những ai không bình thường, mới lên nơi “khỉ ho, cò gáy ấy”. Thế nhưng bây giờ trở lại Bù Đốp, Lộc Ninh, tràn vào tầm mắt của tôi là những vườn cao su, vườn hồ tiêu bạt ngàn. Anh lái xe tên là Sơn của Binh đoàn 16 nói: “Đây đang là nơi thịnh vượng nhất trong các đơn vị của Binh đoàn đấy”.

Đậu trồng xen canh cao su

Bạt cỏ trồng cao su

Chỉ huy trưởng đơn vị 717 Đại tá Lê Đức Thọ là người có duyên. Gương mặt anh lúc nào cũng chỉ muốn cười. Ăn nói dí dỏm, sâu sắc, người con của quê hương Quảng Nam tạo cho bất cứ ai mới gặp cũng cảm thấy gần gũi, muốn tìm hiểu. Anh chỉ tay ra những cánh rừng cao su bạt ngàn, chạy dài gần 80km dọc theo đường biên giới với nước bạn Cam-pu-chia, nói: “Ngày trước, tất cả những nơi đó là cỏ hoang, đất trống”.

Hôm ở Binh đoàn bộ, tôi đã có cuộc trò chuyện với Phó tư lệnh Binh đoàn Thượng tá Vũ Xuân Hải - người chỉ huy trưởng đầu tiên của 717. Những ngày mới lên các xã biên giới của huyện Bù Đốp, Lộc Ninh, cán bộ, chiến sĩ Binh đoàn 16 và công nhân của đơn vị đều ngán ngẩm. Những gốc cỏ búi to có đường kính từ 3 đến 5m, cao hơn cả đầu người, những vùng đất nham nhở sỏi đá như muốn thách thức trí lực của con người. Một số gia đình công nhân từ tỉnh Hà Nam tới đã bàn với nhau: “Hay ta bỏ nơi này về quê cho đỡ khổ”. Nắm được tình hình đó, lãnh đạo, chỉ huy đơn vị 717 đã chụm đầu lại họp bàn. Thế rồi họ chia nhau đi các đội sản xuất động viên, làm công tác tư tưởng cho bà con. Gia đình ai khó khăn, được bộ đội chia sẻ, giúp đỡ về lương thực, tiền bạc để vượt qua giai đoạn đầu còn khó khăn. Ngay cả bà con người địa phương sống trong khu dự án, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số cũng đồng tình ủng hộ bộ đội xây dựng khu KT-QP dần ổn định, phát triển.

Cán bộ Binh đoàn 16 hướng dẫn bà con cách cạo mủ cao su

Ít ngày sau, người dân đã thấy hàng chục chiếc xe ủi, xe xúc ầm ầm kéo về. Những cánh rừng đầy cỏ cứng bị cày xới lên. Những gốc cỏ, gốc cây nằm la liệt. Bất kể ngày nắng, hay ngày mưa, công nhân cùng bộ đội thi nhau thu gom cỏ cây, bạt sạch cỏ ở những diện tích mà máy ủi không làm hết. Gần một năm bạt cỏ, cày cuốc, hàng ngàn héc-ta đất đã phơi mình chờ ngày trồng cây, xuống giống. Trước khi ra quân vào vụ trồng trọt, đơn vị đã phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bình Phước, Hội khuyến nông hai huyện Bù Đốp, Lộc Ninh tổ chức tập huấn cho bà con về kỹ thuật trồng và chăm sóc cao su. Bỡ ngỡ hơn cả là các hộ công nhân đến từ các tỉnh phía Bắc. Trước đây, mọi người chỉ quen với cây lúa, ruộng khoai, nay tiếp xúc với cây cao su, ai cũng như học sinh mới bước vào lớp 1. Ngay một số anh em bộ đội, vốn chỉ quen với súng đạn và những ngày nắng mưa trên bãi tập cũng đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Chị Nguyễn Thị Thu ở đội 7, nằm trên địa bàn xã Lộc An, băn khoăn: “Trồng cao su lấy mủ mà không có lúa gạo thì lấy gì mà ăn?”. Khi được giải thích Việt Nam là một trong những nước có sản lượng cao su cao trên thế giới, khi bán mủ cao su đi sẽ có tiền để mua gạo, sắm ti-vi, xe máy, làm nhà thì chị đã hiểu giá trị của cây cao su trong nền kinh tế nước nhà như thế nào.

Ngày trồng cao su, 8 đội sản xuất của đơn vị 717 vui như ngày hội. Những cháu nhỏ không phải đến trường cũng theo bố mẹ ra đất dự án. Bàn tay người công nhân, bàn tay bộ đội nâng niu từng mầm xanh chỉ cao chừng 40cm với sự khát khao, mong đợi đến nôn nao. Chỉ trong một mùa mưa, cao su đã phủ kín những diện tích đất khai phá. Cao su đội nắng mưa với con người. Hình như nó cũng quyết chí để vươn lên trên một dải biên cương vắng vẻ này.

Thoát nghèo từ xen canh

Những ngày đầu ở Bù Đốp, Lộc Ninh, cái nghèo đói đã len lỏi vào từng hộ dân. Nhiều nhà thiếu gạo ăn. Một số gia đình ở đội 3, đội 4 đã tận dụng đất trống để trồng lúa, trồng đậu. Mấy tháng sau, họ đã có vụ thu hoạch đầu tiên. Thật bất ngờ, sản lượng lúa tuy chưa cao, nhưng những gia đình đó đã tự túc được lương thực, không phải đi vay mượn nữa. Thấy vậy, gần như 100% các hộ công nhân ở đây đều làm theo. Họ trồng đậu, bắp, sắn ở những vườn cao su một năm tuổi. Ngoài các hộ công nhân người Kinh, 16 hộ người S’Tiêng được đưa vào khu dự án cũng tích cực tận dụng đất trống, đất trong các vườn cao su khi cây còn nhỏ để trồng mì. Chính vì vậy, vụ mì vừa qua, bà con đã có nguồn thu bình quân từ 10 đến 20 triệu đồng/hộ. Các gốc hồ tiêu quanh nhà, cũng cho nguồn thu đáng kể. Với cách làm kinh tế gia đình năng động, 16/16 hộ dân S’Tiêng đã mua sắm được ti-vi, 10 hộ có xe máy. Có sự hỗ trợ 15 triệu đồng làm nhà của quân đội và cho vay thêm 10 triệu, một số gia đình S’Tiêng đã bỏ thêm từ 30 đến 70 triệu đồng nữa để xây dựng một căn nhà khang trang, sạch đẹp như gia đình anh Điểu B’Lố, Điểu Phú.

Vườn ươm cao su ở đoàn 717

Đến đội 8, cách đơn vị gần 20km, chúng tôi thấy phong trào trồng xen ở đây rất hiệu quả. Từ những vạt đất giữa hai dãy cao su đến những đất trống ven suối đều được trồng mì, bắp, đậu. Gia đình anh Nguyễn Huy Hoàng, 32 tuổi, quê xã Yên Nam, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam vào Lộc Ninh năm 2004. Vợ chồng anh nhận khoán chăm sóc 8ha cao su. Năm 2007, anh chị tận dụng đất trồng bắp và mì. Đến kỳ thu hoạch, anh Hoàng đã có được 7 tấn bắp, 7 tấn mì (bán bình quân 1,5 triệu đồng/tấn). Sau 4 vụ trồng xen, gia đình anh Hoàng đã có nguồn thu hơn 80 triệu đồng.

Vợ chồng anh Đào Xuân Quyền, quê ở huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam cho rằng: “Trồng xen không vất vả nhiều, nhưng lại cho thu hoạch cao”. Từ năm 2004 đến năm 2006, gia đình anh Quyền đã thu được 30 tấn bắp, hơn 3 tấn đậu nành từ trồng xen. Riêng năm 2007, anh đã có thu nhập 70 triệu đồng tiền bán bắp, mì. Trong đội 8, có những hộ đã thu được gần 100 triệu đồng/năm từ trồng xen như gia đình chị Nguyễn Thị Hồng, anh Đinh Văn Nam. Gặp chúng tôi, chị Hồng cho biết: “Khi cây cao su chưa khép lá, là thời gian thuận lợi để trồng đậu nành, bắp. Còn cây mì thì có thể trồng ở những nơi đất pha đá”. Từ khi tích cực trồng xen, đến nay gia đình chị Hồng đã mua thêm được một mảnh đất ở thị trấn Bù Đốp trị giá hơn 300 triệu đồng, mua 2 xe máy và nhiều đồ dùng đắt tiền trong gia đình.

Đến khu dự án KT-QP Bù Đốp – Lộc Ninh hôm nay, chúng tôi như lạc vào những khu dân cư đã có từ lâu đời. Những nhà trẻ đầy ắp tiếng cười. Những nếp nhà mới khang trang chuẩn bị đón lưới điện quốc gia. Tất cả hòa quyện vào những cánh rừng cao su xanh bạt ngàn, chạy dọc theo chiều dài biên giới của Tổ quốc.

Bộ đội đoàn 717 vận động bà con dân tộc và hướng dẫn nếp sống vệ sinh trật tự

“Vàng trắng” biên cương

Tôi trở lại Bù Đốp trong một ngày mưa trắng trời. Mưa làm cho những con đường đến các đội sản xuất của đơn vị 717 trơn trượt. Ngay cả những chiếc xe máy đã quấn xích quanh hai bánh, vẫn bị vặn vẹo trên đường. Chỉ huy trưởng đơn vị Lê Đức Thọ nói: “Mưa thế này, mỗi ngày chúng tôi bị thiệt hại vài trăm triệu đồng”. “Sao lớn đến vậy?” – Tôi hỏi. “Mưa thì làm sao khai thác mủ cao su được?”.

Đây là năm thứ hai hơn 700ha cao su của đơn vị đã cho khai thác mủ. Những ngày không mưa, công nhân ra vườn từ lúc trời chưa sáng. Hầu hết các hộ gia đình đều ăn cơm tại vườn. Ngủ ít, thức nhiều, nhưng ai cũng vui vì cao su đã mang lại nguồn thu lớn cho đơn vị và gia đình. Đại úy Trần Ngọc Hoa, Đội phó phụ trách kỹ thuật của đội 3 bận bịu như nuôi con mọn. Ngày nào anh cũng có mặt tại các vườn cao su của đội để hướng dẫn công nhân khai thác mủ.

Anh nói:

- Năm nay cao su vẫn được mùa, nên thu nhập của công nhân nâng lên đáng kể. Năm ngoái, lương bình quân của anh chị em là 1,7 triệu đồng/tháng, năm nay nâng lên 2 triệu, không ít người được trả lương hơn 3,5 triệu đồng/tháng.

Có thu nhập từ trồng xen, từ khai thác mủ cao su, gần 80% gia đình bộ đội, công nhân của 717 đã có tiền xây nhà mới, mua ti-vi, tủ lạnh, xe máy. Có người còn tiết kiệm tiền để mua thêm đất ở thị trấn Bù Đốp, Lộc Ninh nữa. Theo lãnh đạo, chỉ huy đơn vị 717, từ nay đến năm 2010, sẽ có thêm 1.000 đến 1.500ha cao su được đưa vào khai thác. Khi ấy, sản phẩm “vàng trắng” mà đơn vị có được trong mỗi mùa cạo mủ, sẽ nhiều hơn năm nay gấp hai, gấp ba lần. Và lương trung bình của công nhân cũng sẽ tăng.

Trời hửng nắng. Tôi đi dọc những cánh rừng cao su từ đội 3 đến đội 8. Đầu mùa khô, trời biên giới đã có những cơn gió nóng thổi về. Mặc nắng gió, những người công nhân của đơn vị 717 vẫn hòa mình vào vườn cao su. Với bàn tay khéo léo của họ, những dòng mủ mà mọi người thường gọi là “vàng trắng” nhỏ xuống bát. Gần trưa, những tốp người từ trong rừng cao su nối đuôi nhau ra điểm tập kết. Họ xách theo những chiếc thùng chứa đầy mủ để xe ô tô chở đến nơi chế biến sơ. Trên những gương mặt lấm tấm mồ hôi, tôi thấy nụ cười của công nhân cao su thật rạng rỡ. Đó là niềm vui của một vụ mùa thắng lợi. Đó là nụ cười mang theo niềm tin mãnh liệt vào sự phát triển của những dự án KT-QP do Binh đoàn 16 đang đảm nhiệm.

*

* *

Nhìn những cánh rừng cao su xanh ngắt trong tầm mắt, tôi nhớ câu nói của Thiếu tướng Trần Đình Hạng, Chính ủy Binh đoàn 16: “Dù còn nhiều khó khăn, vất vả, nhưng cán bộ, chiến sĩ Binh đoàn quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và quân đội giao phó. Chúng tôi cùng bà con đồng bào các dân tộc sẽ biến vùng biên cương phía nam Tây Nguyên này trở thành vành đai vững chắc để bảo vệ Tổ quốc XHCN và góp phần tích cực vào sự nghiệp: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Bài và ảnh: Lê Phi Hùng
Binh đoàn ở Nam Tây Nguyên (Kỳ 1)
Binh đoàn ở Nam Tây Nguyên (Kỳ 2)