Người Mông bên dòng suối Đắc Ngo
Tháng 11, người Tây Nguyên tất bật với cây cà phê. Vào đến khu vực đội 8, tôi bất giác nghe thấy tiếng hát của một thiếu nữ Mông: “Gặp chàng mùa cà phê. Người Mông ta mở hội. Yêu nhau mùa cà phê. Em bị chàng “bắt” vợ. Yêu lắm tiếng khèn Mông. Vang vọng suối Đắc Ngo”.
Chuyện của già làng Hạng Sào Vảng
Mặt trời giấu mặt sau cánh rừng phía Tây, già làng Hạng Sào Vảng mời chúng tôi vào bữa. Hơi rượu nấu từ gạo đầu mùa thơm nồng, thấm vào làn môi mọi người những câu chuyện về ngày mở đất. “Ngày ấy khổ lắm cán bộ à” - Già làng mở đầu bằng cái giọng xa xăm - “Người Mông mình bỏ Tây Bắc vào Tây Nguyên mà lòng đau quặn”…
Mèo Vạc, Bắc Hà… nhiều bản Mông mở mắt ra chỉ nhìn thấy đá. Những thành núi đá nhọn hoắt, như cắm vào mắt người sự đói nghèo, gian khổ. Hơn một nửa bản Mông của già làng Hạng Sào Vảng mới hết mùa đã bị đói. Không có gạo ăn, bà con phải lên rừng đào củ. “Không phải người Mông mình lười lao động đâu à. Nhưng làm còng cả lưng, bạc cả tóc mà hạt thóc chẳng chịu chạy vào” - Nhấp một ngụm rượu, già làng Hạng Sào Vảng nói. Mùa đông, cái rét như cắt từng nếp da, thớ thịt, thế mà đàn ông, đàn bà và cả trẻ con nữa phải gùi đất đổ vào hốc đá để bỏ hạt lúa. Đá cắt chân ứa máu. Vậy mà đến lúc thu hoạch, hầu như chẳng nhà nào đủ ăn quá hai tháng. Nghèo đói, bọn trẻ con không muốn đến trường. Hơn 10 tuổi, chúng đã lấy nhau, rồi sinh con, đẻ cái. Cái ăn ít, người lại đông, cái đói càng theo riết...
 |
Bản Mông ở Đắc Ngo |
Tây Nguyên ít đá hơn Tây Bắc, nhưng núi rừng hiểm trở cũng không kém. Vào Cư Giút, Đắc G’long, Đắc Min, Ma Đ’rắc, người Mông sống vất vưởng, chẳng khác gì con thú hoang trong rừng. Cứ thấy chỗ nào không có người, là bàn nhau đốt cây, phá rừng làm rẫy. Thu hoạch xong cả bản lại bỏ đi phá nơi khác. Bọn trẻ con ngơ ngác hỏi người lớn: “Sao không làm cái bản mới?”. Người lớn nhìn nhau, nước mắt nhỏ xuống chân. Mấy năm lang thang từ cánh rừng này, đến ngọn đồi kia, cái chân, cái đầu người Mông nặng trĩu. Nhiều người bị sốt rét hành hạ tím cả môi, rụng cả tóc. Một vài người đã bỏ bản làm con ma rừng. Đám trẻ con đói ăn khóc khô cả mắt. Chẳng lẽ cái nghèo không chịu buông tha người Mông ta?
Đầu năm 2002, nhiều tốp cán bộ dẫn theo cả bộ đội đến gặp những người dân di cư tự do. Họ vận động bà con theo bộ đội về chỗ mới làm nhà, cấy lúa. Những ánh mắt nhìn nhau ngờ vực. “Liệu bộ đội có tốt với người Mông đến như vậy không?”. Có người thì thầm vào tai già làng Hạng Sào Vảng: “Đừng nghe bộ đội. Chúng nó lừa để bắt người Mông ta về quê cũ đó”. Ông Vảng không tin. Những năm đánh Pháp, già làng đã từng là một Vệ quốc đoàn. Bộ đội Cụ Hồ đi đâu cũng giúp đỡ nhân dân, cũng thương dân. Nghe cán bộ giải thích về việc Chính phủ đã cấp kinh phí để xây dựng khu dự án cho bà con người Mông đến ở, già làng cứ tưởng mình nghe lầm. Đến khi bộ đội Binh đoàn 16 đưa ô tô tới chở bà con, có người lại hỏi ông: “Có đi theo bộ đội không?”. “Theo chứ. Bộ đội muốn điều tốt cho người Mông ta mà”.
Về Đắc Ngo, vợ già làng ôm mặt khóc. Chao ơi, chỗ này hoang vắng, xa xôi còn hơn những nơi người Mông đã đến. Những con đường đất trơn trượt. Những cánh rừng xác xơ. Và cả con suối cũng oằn mình vì sự cô đơn. Đã có một số nhà bỏ trốn khỏi Đắc Ngo. Già làng Hạng Sào Vảng động viên vợ và bà con: “Đừng lo, có bộ đội Binh đoàn, người Mông ta sẽ sớm hết khổ mà”. Đúng như vậy. Những ngày sau, từng tốp bộ đội đến từng nhà để phát gạo, muối, cấp đất làm nhà cho dân. Họ còn chở cả tôn, tre, nứa, cấp tiền để giúp dân làm cái nhà mới. Bảy lần ông mặt trời thức dậy, 6 bản Mông đã in bóng xuống dòng suối Đắc Ngo. Tùy theo số người trong gia đình, mỗi hộ còn được cấp từ 0,5 đến một héc-ta đất để canh tác...
Người Mông không còn khổ nữa
Thiếu úy Nguyễn Trọng Thắng, Đội phó đội 8 chở tôi đi dọc “phố của người Mông”. Từ khu cầu vào đội 4 với “siêu thị” của ông Lý Văn Xem, đến những nhà sinh hoạt tôn giáo của bà con bản Suối Trận, chỗ nào tôi cũng thấy những căn nhà gỗ mọc san sát bên nhau. Tại đây, người ta có thể mua sắm gạo, muối, rau quả, thịt, cá và quần áo nữa. Ông Dương Văn Phông, một trong những người đầu tiên đến Đắc Ngo kéo tôi vào nhà kể: “Nhà báo à. Từ ngày theo bộ đội của Thủ trưởng Mài về đây, người Mông ta hết khổ rồi. Nhà nào cũng nhiều thóc, nhiều cà phê”.
Theo thống kê của Ban chính trị đơn vị 720, tổng số 312 hộ người Mông trong dự án chỉ còn gần 6% hộ nghèo. Hơn 90% số gia đình đã mua được xe gắn máy, mua ti-vi. Gần 20 hộ đã mua được tủ lạnh, máy bơm nước, máy kéo, máy xay xát lúa. Vui nhất vẫn là già làng Hạng Sào Vảng. Do biết cách làm ăn, tiết kiệm trong chi tiêu, nên hai năm qua, gia đình ông đã có nguồn thu hơn 100 triệu đồng/năm từ điều, cà phê và lúa. Có tiền, già làng làm một cái nhà gỗ to, có bếp để lúa gạo, cà phê. Ông còn sắm hai chiếc xe gắn máy mới, một cái tủ lạnh. Ông nói với tôi: “Nhà mình chưa bằng nhà thằng Thào A Sáng đâu à. Nó cũng mua được 2 cái xe gắn máy, một cái vô tuyến to và một cái máy xát gạo đấy”. Ông còn cho tôi biết, hồi ở Tây Bắc, bọn con trai, con gái chỉ biết đi bằng cái chân thôi. Nay ở Đắc Ngo, họ biết đi xe máy ra chợ, ra suối chở nước sạch về ăn. Đám thanh niên tối thứ bảy, chủ nhật nào cũng thức xem bóng đá Anh, bóng đá I-ta-li-a trên vô tuyến nữa. Bọn con gái trước đây có đứa nào mặc quần lót, áo lót đâu. Thế mà bây giờ chúng nó đi tìm hàng của Sài Gòn, của Thái Lan để mua.
Háo hức nhất có lẽ là khi Công ty Bưu chính – Viễn thông quân đội lắp cột thu - phát sóng điện thoại di động trên đơn vị. Thấy Chỉ huy trưởng đơn vị Vũ Văn Mài cầm cái “cục sắt” bé bằng nửa bàn tay, mà nói chuyện được cả với người ở Hà Nội, già làng Hạng Sào Vảng cứ lắng tai nghe. “Cái nói được chuyện ấy chắc nhiều tiền lắm” - Ông hỏi đội phó Thắng. “Chỉ hơn một triệu là mua được rồi” – Thắng trả lời. “Ồ, rẻ thế thôi à. Mai mày mua giúp bố một cái nhé”. Hôm sau không chỉ già làng Hạng Sào Vảng, mà anh Thào A Sáng, Dương Thanh, Giàng A Sùng, Lý Văn Xem cũng mua điện thoại. Được bộ đội hướng dẫn cách sử dụng, người Mông ở bản này, gọi người Mông ở bản bên sang uống rượu. Họ cần trao đổi hàng hóa, cũng chỉ cần ngồi ở nhà gọi điện thoại là người ngoài Kiến Đức, Gia Nghĩa đến liền. Rộn rã nhất là đám con trai, con gái. Chúng hò hẹn bằng điện thoại di động.
Tôi đi bộ trên con đường đất đỏ bên dòng suối Đắc Ngo. Dưới chân cầu của bản Thống Nhất, mấy cô gái Mông vừa giặt quần áo, vừa cười đùa vui vẻ. Trên bờ, bốn, năm chiếc xe gắn máy chở đầy can nhựa. Già làng Giàng A Lừ bảo với tôi: “Chúng nó giặt quần áo xong, lại phải chở nước về nhà ăn đấy”. Dọc theo bờ suối, những ngôi nhà gỗ in hình xuống dòng nước. Nhìn bản Mông đông vui, tôi mới nhớ câu nói ví von của Đại tá Vũ Văn Mài, gọi đó là: “Phố của người Mông” sao ý nghĩa quá. Đúng. Nếu nơi đây xuất hiện những con đường nhựa, thì cũng có thể gọi khu dân cư này là “Đô thị của người Mông”.
Thao thức Đắc Ngo
Ngồi bên bếp lửa bập bùng sau bữa cơm đãi khách, già làng Hạng Sào Vảng kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện. Nào là chuyện giải quyết kiện cáo của gia đình một cô gái đi theo người đàn ông đã có vợ. Chuyện cô gái không chồng mà có mang, bị dân làng đuổi vào rừng, nhưng bộ đội đã cưu mang và thuyết phục dân bản cho cô gái được sống với cộng đồng. Chuyện người Mông đi xe gắn máy không biết Luật Giao thông, bị tai nạn… Nhưng chuyện mà nhiều đêm ông đã mất ngủ là việc người dân di dân tự do vào khu dự án quá nhiều. Ngoài 312 hộ dân được bộ đội Binh đoàn 16 đưa vào dự án năm 1999, từ năm 2002 đến nay, đã có thêm gần 450 hộ dân với khoảng 2.200 nhân khẩu đã đến Đắc Ngo. Đan xen bên những ngôi nhà gỗ khang trang, là những túp lều tuềnh toàng, mưa là dột, gió là tốc mái. “Nhà của những đứa di dân tự do đó” – Già làng Hạng Sào Vảng nói.
Tôi bước chân đến một căn nhà lụp xụp. Chủ nhà là một phụ nữ chừng 30 tuổi. Chị tên là Thào Thị Chế, quê ở huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu, mới vào Đắc Ngo năm 2006. Căn nhà này chị dựng nhờ trên mảnh đất của người cháu là Thào A Hồng. Gia đình chị Chế không có đất, nên ngày nào cũng phải đi làm thuê cho các hộ dân trong dự án. Tuy rất vất vả, nhưng mỗi ngày chị cũng kiếm được hơn 50.000 đồng. Cạnh nhà chị Thào Thị Chế là gia đình anh Lý Văn Khư, quê ở Tuyên Quang. Vợ chồng anh cũng phải làm thuê kiếm tiền nuôi hai đứa con nhỏ. Anh Khư nói: “Mình không thể về Tây Bắc được nữa đâu. Mong Chính phủ làm thêm cái dự án mới, để những người như mình có đất làm nhà, có đất trồng lúa, trồng cà phê”.
Đại tá Vũ Văn Mài cũng cho tôi biết: “Binh đoàn cùng lãnh đạo tỉnh Đắc Nông đã báo cáo Bộ Quốc phòng và Chính phủ tình hình trên. Nhưng vẫn phải chờ một thời gian nữa”. Người di dân vào Đắc Ngo nhiều, làm cho mảnh đất này trở nên quá tải. Một lớp ở bậc tiểu học, mà phải chứa hơn 60 học sinh. Bệnh xá nhiều khi không có giường cho bệnh nhân nằm. Anh em cán bộ, chiến sĩ đơn vị 720 phải bớt chế độ, tiêu chuẩn để giúp đỡ đồng bào. Hiện nay, dự án mới cho số người Mông di cư tự do đang được tỉnh Đắc Nông khảo sát, thiết kế để báo cáo Chính phủ.
(Còn nữa)
Kỳ 3: Cao su trên đất Lộc Ninh, Bù Đốp
Binh đoàn ở Nam Tây Nguyên (Kỳ 1)
Bài và ảnh: Lê Phi Hùng