QĐND Online - Chúng tôi trở lại Bình Đà vào một sớm áp tết Đinh Hợi. Tuy không còn cảnh kẻ mua, người bán tấp nập, với những mẹt pháo đủ loại được bày bán kín các lối ra vào làng như cách đây hơn 10 về trước, nhưng trên khuôn mặt những người dân là sự thanh thản, không còn những nét phập phồng lo âu vì một tiếng động dù nhỏ nhất. Người Bình Đà đang rộn ràng đón xuân trong sự thanh bình…
 |
Vợ chồng nghệ nhân làm pháo Bình Đà Nguyễn Chính Trung |
Pháo Bình Đà còn trong hoài niệm
Mới chỉ hơn 10 năm, thời gian cũng đủ để Bình Đà không còn dấu vết của một làng nghề truyền thống tưởng như không thể thiếu trong cuộc sống của người dân nơi đây.
Đến Bình Đà, không ai không biết nghệ nhân Nguyễn Chính Trung, người nổi tiếng và thành đạt nhất về sản xuất pháo bông nghệ thuật trong cả nước. Năm 1986, ông Trung cũng là người đầu tiên cùng một số nghệ nhân Bình Đà mang pháo bông tự sản xuất đốt mừng tại Tràng Tiền, Trung tâm triển lãm Giảng Võ và Trung tâm Văn hoá nghệ thuật Vân Hồ. Một năm sau, ông Trung được phong Nghệ nhân pháo bông quốc gia vì những cải tiến trong việc sản xuất pháo bông.
Bên ấm trà sen toả hương thơm ngát, người nghệ nhân già chậm rãi kể với chúng tôi những buồn vui về nghề làm pháo. Ông bảo, những danh hiệu Nhà nước đã trao tặng cho ông như: Nghệ nhân quốc gia, Huy chương vàng về sản xuất pháo hoa và hàng chục bằng khen, giấy khen… là sự ghi nhận cố gắng của ông trong nỗ lực cải tiến, phát minh pháo bông. Đó là niềm vui, tự hào của riêng cá nhân ông, song pháo cũng là kỷ niệm buồn. Khi lệnh cấm pháo được Nhà nước ban hành, gia đình ông đã phải huỷ hơn 100 cây pháo bông (giá thành ở thời điểm ấy vào khoảng 8 triệu đồng/cây) cùng hàng ngàn quả pháo thăng thiên (2000 đồng/quả). Thế nhưng, chính ông lại đồng tình với lệnh cấm pháo chỉ bởi lý do nó quá nguy hiểm.
Ông say sưa kể về thời hoàng kim nghề pháo. Theo lời ông, nét tinh tuý, độc đáo nhất của làng Bình Đà là làm pháo bông chứ không phải là pháo nổ. Pháo nổ chỉ nở rộ từ đầu những năm 1980. Trước đây, hội làng Bình Đà (cũng là ngày tế lễ quốc tổ Lạc Long Quân ở đền Nội) là hội lớn nhất, độc đáo nhất cả vùng. Vào hội, 7 xóm trong làng Bình Đà chuẩn bị 7 cây tre to, trên mỗi cây được thiết kế một giàn pháo bông mang ra trước đền Nội. Chính hội diễn ra vào tối 6-3 (âm lịch hàng năm), 7 cây pháo đồng loạt “khai hoả” thật tuyệt vời.
Trong thâm tâm ông vẫn nói rằng, nghề làm pháo nguy hiểm ngang với chơi súng đạn. Sơ xảy là mất mạng như chơi. Còn vợ ông, bà Lê Thị Huệ, hồ hởi khác thường khi chúng tôi gợi về chuyện pháo. Bà tả lại: “Vào những ngày giáp Tết, Bình Đà nườm nượp người và xe cộ khắp nơi đổ về. Lái buôn khắp cả nước đến đây mua pháo, cả làng rộn ràng và tấp nập. Khi ấy, chỗ nào trên đất Bình Đà người ta cũng có thể ngửi thấy mùi pháo, nghe được tiếng pháo nổ và thấy pháo bày la liệt từ trong nhà ra ngoài đường”.
Bà Huệ cũng tâm sự: “Làm pháo hồi đó thật sôi động và có thu nhập song chẳng khác ngồi cạnh ông hùm ngủ, chẳng ai biết được ông trỗi dậy lúc nào để mà phòng, tránh!”. Tai nạn vì pháo có thể xảy ra bất cứ lúc nào, khi nào. Chỉ cần người xao thuốc không khéo cũng nổ, tra thuốc vào ruột không đều tay cũng nổ, thậm chí làm xong rồi mang pháo đi bán vẫn có thể nổ bất thình lình. Đi đâu khỏi nhà một bước là trong lòng cứ lo ngay ngáy. Chỉ nghe thấy bất cứ tiếng nổ ở đâu là ruột gan cứ thót cả lại, chân tay bủn rủn vì lo lắng. Nhiều nhà đã mất tất cả vì pháo. Các cụ nói, sinh nghề tử nghiệp cấm có sai.
Lời của bà được ông Nguyễn Đức Quý, xóm Thanh Cao nối vào: Làm pháo được thì có được nhưng trong lòng lúc nào cũng nơp nớp lo âu. Bỏ nghề pháo có tiếc thật đấy nhưng bù lại người luôn thanh thản. Bây giờ Nhà nước có cho làm pháo lại, chúng tôi chẳng làm. Rồi ông Quý luôn miệng xuýt xoa: “Chúng tôi nhớ rõ, lệnh cấm pháo của Nhà nước đưa xuống xã tôi hồi cuối năm 1994 làm cả làng buồn như đưa đám. Được cái người dân Bình Đà chúng tôi chấp hành quy định của Nhà nước rất nghiêm. 100% hộ dân ngừng sản xuất pháo ngay khi có luật”. Ông nói tiếp: Hiện nay, hầu hết các gia đình đã từng sống bằng nghề pháo toả đi tứ xứ để kiếm sống. Người thì vào doanh nghiệp, người thì chạy chợ nhì nhằng… thu nhập tuy có kém hơn làm pháo nhưng bù lại, cuộc sống cũng trở nên đỡ nặng nề hơn, không còn phải nơm nớp lo tai nạn…
Bình Đà hôm nay
“Từ ngày thôi không làm pháo đến nay, mỗi năm, kinh tế của Bình Đà vẫn phát triển đứng nhất nhì của huyện Thành Oai; những ngôi nhà mới hai, ba tầng vẫn lần lượt xuất hiện mới trong làng… cuộc sống của người dân đang ngày được cải thiện rõ rệt” – Ông Nguyễn Kiêm Đông, phó chủ tịch UBND xã Bình Minh nhận xét.
Ngay sau khi thực hiện lệnh cấm sản xuất pháo nổ của Nhà nước, toàn thể người dân và chính quyền xã Bình Minh đã bắt tay vào thực hiện một nhiệm vụ mới – đó là tìm một hướng đi, ổn định thay thế cho nghề làm pháo. Lần lượt các lớp dạy nghề được mở ra, từ nghề mây tre đan, thêu, mộc… đều được đua về “cấy” ở Bình Đà; song song với đó là việc tạo điều kiện thuận lợi để kêu gọi các doanh nghiệp về đầu tư, từ đó thu hút lao động nông nhàn.
Tính đến nay, chính quyền xã phối hợp cùng các cơ quan chức năng đã mở được 17 lớp dạy nghề cho gần 2.000 người thành nghề và giải quyết việc làm tại chỗ tập trung vào các ngành hàng: mây tre đan, thêu ren, may mặc, khâu bóng, mộc dân dụng, thủ công mỹ nghệ, vi tính. Trong các cụm dân cư cũng như mỗi gia đình còn truyền nghề cho nhau, nên không còn lao động thiếu việc làm.
Theo các đồng chí lãnh đạo của xã cho biết thì những năm gần đây, cơ cấu kinh tế công nghiệp, thủ công nghiệp chiếm tỷ trọng gần 40%, dịch vụ chiếm 30% và nông nghiệp chiếm trên 30% tổng giá trị của toàn xã.
Với sự nỗ lực đó, đến nay xã Bình Minh đã thu hút 12 doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đầu tư vào xây dựng cơ sở sản xuất công nghiệp hoạt động có hiệu quả, giải quyết nhiều lao động tại chỗ. Các doanh nghiệp có tiềm lực về kỹ thuật và tài chính đã tập trung vào các ngành hàng có thị trường rộng lớn, tiêu thụ ở trong nước và xuất khẩu như: Hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến lâm sản, sản xuất dụng cụ thể dục, thể thao, khâu bóng... Toàn xã hiện có 12.000 dân, trong đó có khoảng 8.000 người trong độ tuổi lao động. Tính đến thời điểm này, đã có hơn 3.000 người đang là công nhân trong các nhà máy, xí nghiệp đóng trên địa bàn. |
Quan sát chúng tôi thấy, các gia đình trong xã đều có cuộc sống ổn định. Được biết, có gần 40% số hộ vào loại khá và giàu, chỉ còn 5% số hộ nghèo. Năm 2006, xã phấn đấu đạt thu nhập bình quân 5,3 triệu đồng/người/năm, tăng gấp 2,5 lần so với năm 1995. Đặc biệt, từ tháng 10/2006, chính quyền xã mở lớp dạy làm tăm hương xuất khẩu cho đông đảo người dân. Lớp đã thu hút nhiều người tham gia.
Trong năm 2007, Nghị quyết của Đại hội đảng bộ cũng như của HĐND xã Bình Minh thống nhất dành 40ha đất trong quỹ đất mời gọi đầu tư, thu hút lực lượng lao động, có đóng góp ngân sách cho địa phương. Đến nay, trên địa bàn xã hiện có 12 doanh nghiệp trong và ngoài nước đứng chân và bắt tay vào sản xuất. Ngoài ra, còn có một số doanh nghiệp đang đến đặt hàng. Năm 2007, chính quyền xã tập trung vào chính sách “dồn điền đổi thửa”, nhằm chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo mô hình trang trại. Có dự án quy hoạch đất mặt đường nhằm thu hút các doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà máy xí nghiệp.
Đi trên đường làng nhỏ quanh co, trong Bình Đà, bên cạnh nỗi bâng khuâng, cảm thấy như thiếu vắng một thứ gì đó. Những tiếng nổ đì đùng vẫn vang vọng đâu đây trong tiềm thức… Làng pháo sầm uất, rộn ràng xưa chỉ còn trong hoài niệm xa xôi… Nhưng trong mỗi chúng tôi, ai cũng vui vì hơn 10 năm qua, Bình Đà không còn và không gián tiếp gây nên những tai nạn đau lòng vì pháo cho các vùng Bắc Bộ.
Bài và ảnh: Kim Anh – Phú Sơn