Bài 4: Đổi đời bên suối Đắk Ngo

QĐND - Mỗi lần đến khu KTQP Đắk Ngo, tôi hay la cà xuống các bản Mông. Đến gần dốc của đội 4, tôi nghe thấy tiếng của anh Lý Văn Xem: “Này anh nhà báo. Có phải anh đang thích con suối Đắk Ngo?”. “Mình thích suối Đắk Ngo lắm. Nhưng mình thích ngắm các cô gái Mông chở nước về nhà hơn” – Tôi tếu táo. “Cứ ngắm chúng nó đi, tý về nhà mình uống rượu nhé” – Lý Văn Xem mời chào. Sau câu nói của anh Xem, tôi bỗng nghe thấy tiếng hát lảnh lót phía bờ suối: “Đôi tay em trắng ngần/ Đôi môi em mọng đỏ/ Đôi má em hồng tươi/ Để dành cho anh đó…”. Câu hát ấy được giai điệu khèn Mông kéo vút lên cao. Phía bờ suối bên kia, 4, 5 chàng trai lắc lư theo âm thanh lắt lẻo. Nghe tiếng khèn Mông giữa núi rừng Tây Nguyên, tôi cứ ngỡ như đang được đứng chót vót trên cao nguyên đá Đồng Văn của Hà Giang, hay dập dìu, chìm đắm trong chợ tình SaPa.

Một cửa hàng của người Mông. Ảnh: Phú Hưng

Buổi tối ở nhà anh Lý Văn Xem đèn điện sáng trưng. Bà con đi nương rẫy về, đều đến đây mua thịt, mua rau cho bữa tối. Chẳng riêng gì nhà anh Xem, mấy nhà bên cạnh cũng nhộn nhịp cảnh người mua, kẻ bán. Năm 2008, khi lần đầu tiên đến đây, tôi sững sờ khi nghe có người ví von: “Đây là khu “siêu thị” của người Mông đấy”. Ngày ấy khu vực này chỉ bán gạo, muối, quần áo và một số đồ dùng thiết yếu cho sinh hoạt hằng ngày. Nhưng bây giờ thì khác. Các cửa hàng được bố trí gọn gàng, sạch sẽ theo từng chủng loại hàng hóa. Chỗ bán thực phẩm có bàn riêng, cách xa chỗ bán quần áo, giày dép, xà bông, đồ trang điểm. Những sạp bán quần áo cũng được kê cao, dễ đi lại để người mua lựa chọn thoải mái. Chàng trai Lý Văn Sở, con của anh Xem “bật mí”: “Thanh niên Mông ở Đắk Ngo giờ biết ăn mặc rồi đấy. Ngoài những bộ váy áo truyền thống, chúng mình còn mua cả đồ ngoại để dùng nữa”. Con gái Mông không chỉ chọn mua những bộ thời trang chính hiệu của Việt Nam, các cô còn hỏi hàng của Thái, của Trung Quốc, của Hàn Quốc nữa. Nhiều cô còn hỏi mua những thỏi son đắt tiền, những lọ nước hoa của nước ngoài.

Lý Văn Xem quay sang phía tôi nói: “Đời sống của bà con trong khu dự án khá lên nhiều rồi. Qua 8 năm làm rẫy, thóc gạo, khoai sắn trong nhà người Mông ngày càng nhiều, là nhờ công sức của bộ đội Trung đoàn 720 và sự chịu khó của đồng bào đấy”. Mấy năm gần đây, đã xuất hiện hơn 10 hộ gia đình người Mông làm ăn giỏi, có nguồn thu từ 50 đến 100 triệu đồng/năm như nhà già làng Hạng Sào Vảng, nhà anh Giàng A Páo. Các gia đình khác cũng chịu khó lao động, nên cái đói không bám theo nữa. Đến mùa gặt, mỗi khi ông mặt trời nhô ra khỏi cánh rừng phía Đông, là người lớn lên rẫy, còn người già và trẻ con đổ thóc trong nhà ra phơi. Từ khi đời sống ấm no hơn, những con đường tới các bản Mông càng trở nên nhộn nhịp, tấp nập. Người ở thị xã Gia Nghĩa, thị trấn Kiến Đức và cả dưới vùng Bù Đăng, Đồng Xoài của tỉnh Bình Phước chở hàng hóa vào bán đông như trẩy hội. Nhiều thương lái đem cả xe tải đến để mua mì, mua lúa, mua cà phê, hạt điều của bà con. Trước đây, lúc cuộc sống còn khó khăn, thương lái có ép giá người dân vẫn phải ngậm ngùi bán sản phẩm lao động của mình cho họ. Nhưng bây giờ thì khác, không ít xe ô tô phải nằm dài 3, 4 ngày trong bản mà vẫn chưa mua đầy hàng. Chị Mùa Thị Mai nói: “Nhà mình có nhiều cà phê lắm. Thương lái đến trả rẻ, mình bảo: Phải đúng 36.500 đồng/kg mới bán, chúng tôi chưa hết tiền đâu. Bà con thấy vậy cũng nghe theo. Thế là họ phải mua với giá 36.000 đồng/kg đấy”.

Các bản Mông ở Đắk Ngo thực sự đổi mới và văn minh từ ngày đường điện được kéo về. Ngày ấy, anh Sùng Dũng Di, Tổ trưởng tổ 2 của đội 4 chạy khắp khu dự án tuyên truyền với bà con thực hiện đúng những lời bộ đội đã nói để bảo đảm an toàn tính mạng, tài sản của tập thể và của từng gia đình khi dùng điện. Có ánh sáng, đêm ở Đắk Ngo như ngắn lại, còn niềm vui của bà con cứ dài ra từng ngày. Lúc chưa có điện, tiền làm ra chỉ biết mua quần áo, giường tủ, xe máy và sắm vài thứ linh tinh. Nay nhà nào cũng ra Kiến Đức, lên Gia Nghĩa hay xuống tận Đồng Xoài để tìm mua ti vi, đài đĩa. Những gia đình kinh tế khá hơn, lại muốn xuống tận Thành phố Hồ Chí Minh để tìm mua máy xay xát lúa, tủ lạnh, tủ đá. Nhà anh Lý Văn Xem đã mua tủ lạnh rồi, còn mua thêm tủ đá để đựng thực phẩm bán. Anh bảo: “Sau này cuộc sống của bà con giàu hơn, mình sẽ mua máy giặt to về để làm dịch vụ giặt là đấy”.

Nói đến điện, bà con nhắc ngay đến “thần điện” Phan Văn Binh - Tổ trưởng tổ chế biến cà phê của đội 1, kiêm thợ điện của bản Mông. Không chỉ bảo quản, theo dõi chặt chẽ hệ thống điện trong toàn khu dự án, Phan Văn Binh còn tranh thủ thời gian đến các gia đình hướng dẫn đồng bào cách lắp đặt, sử dụng các thiết bị điện sao cho an toàn, tiết kiệm nhất. Anh thân thiết với bà con đến nỗi mỗi khi mất điện là các già làng lại gọi: “Cán bộ Binh à. Cái điện ở bản mình nó “chết” rồi, xuống đây làm cho nó “sống” lại đi để mọi nhà xem ti vi nhé”. Thế là dù mưa gió, đêm hôm, Phan Văn Binh vẫn lên đường kiểm tra, khắc phục sự cố. Tôi đã đi đến nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên Tây Nguyên, nhưng ít thấy nơi nào có nhiều ti vi như ở Đắk Ngo. Đến nay, 100% số gia đình người Mông trong khu dự án KTQP Đắk Ngo mua được ti vi. Ở cuối dãy Trường Sơn xa xôi, bà con được xem Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội trên ti vi hằng ngày. Có ti vi, đám thanh niên bớt la cà uống rượu say mỗi đêm. Hai buổi tối cuối tuần, đám trẻ lại thao thức với trái bóng của giải ngoại hạng Anh, giải của Đức, của Ý...

Đã có lần anh Giàng A Páo nói với tôi: “Sau 8, 9 năm làm ăn ở Đắk Ngo, người Mông rất ít đi bằng chân à, mà đi bằng xe máy đấy”. Cuộc sống ở đây ngày càng khấm khá hơn, đồng bào không chỉ mua ti vi, quạt điện, đèn nê-ông mà mỗi gia đình trong khu dự án đều sắm được xe máy. Nhà khá còn mua được vài ba chiếc. Xe máy lên nương rẫy. Xe máy ra suối chở nước. Xe máy đưa người lên bệnh xá trung đoàn hay ra bệnh viện tỉnh. Xe máy chở người nhà, người yêu đi chơi.

Cán bộ tỉnh Đắc Nông khảo sát lập dự án ở tiểu khu 1541. Ảnh: Phú Hưng

Đầu năm 2007 đã đánh dấu một sự đổi thay lớn lao ở khu dự án KTQP Đắk Ngo. Đó là khi Công ty Viễn thông Quân đội Viettel đến lắp cột thu phát sóng điện thoại di động. Một lần, nhìn thấy Thiếu úy Nguyễn Trọng Thắng, Đội phó đội 8 (nay là đội trưởng) cầm cái “cục sắt” to bằng nửa bàn tay áp vào má rồi cứ nói bô bô như trò chuyện với cây rừng, già làng Hạng Sào Vảng hỏi: “Mày bị ma làm à Thắng?”. Người sĩ quan trẻ toét miệng: “Con đang nói chuyện với thủ trưởng Mài”. “Già làng Giàng Seo Mài ở mãi trên trung đoàn cơ mà?”. “Ở trong cái máy điện thoại di động này này”. Nói đoạn, Thắng đặt điện thoại vào tai già làng và bảo: “Bố nói đi”. Ông chưa kịp nói gì đã nghe thấy tiếng: “A lô, già làng Hạng Sào Vảng hả? Tôi là Mài đây”. “Giàng ơi! Sao cán bộ Mài vào được trong này”. Những người xung quanh tròn xoe đôi mắt, còn Thắng thì cười ngặt nghẽo: “Bố và đồng bào thấy không, điện thoại di động có thể nói chuyện với người ở cách mình rất xa, kể cả ngoài Tây Bắc hay ở nước khác”. Hôm sau, già làng bắt Thắng chở lên thị xã Gia Nghĩa để mua điện thoại. Ông còn làm hai bữa cơm để “dụ” nó tới nhà dạy cách dùng điện thoại. Một hôm đang họp các già làng, trưởng bản trên trung đoàn, ông thấy cái điện thoại cứ đổ chuông mãi, muốn nó “trật tự” mà chưa biết cách. Ông đi ra ngoài rút điện thoại ra nói: “Mày mất trật tự quá. Đang họp mà cứ réo lên. Lần sau mà như vậy, tao không cho đi theo nữa”. Khi mọi người cười nghiêng ngả, ông mới biết là mấy chú bộ đội cùng họp nháy máy trêu. Nửa năm sau, 4 đội sản xuất của người Mông đã xuất hiện hơn 100 chiếc điện thoại di động. Có điện thoại, muốn gọi nhau đến nhà uống rượu, nói chuyện, không phải đi tới từng nhà nữa. Những lúc cần đưa người đi cấp cứu, báo cáo tình hình lên trung đoàn, lên xã, chỉ mất có mấy phút thôi. Tiện nhất là việc giao lưu, trao đổi hàng hóa, chỉ cần gọi di động là thương lái ở đâu cũng tới nhanh, muốn mua hàng gì cũng có.

Tháng mười, mùa cà phê chín nhuộm tím đỏ núi rừng. Người Mông, người Kinh, người Mơ Nông và người Hoa ở Đắk Ngo như vào mùa lễ hội. Cà phê tràn ngập sân phơi. Cà phê hừng hực trong nắng Tây Nguyên. Chuông điện thoại của người dân trong khu dự án KTQP reo lên liên tục vì thương lái gọi hỏi mua hàng. Con đường thoát nghèo vươn lên khá giả và làm giàu như rộng mở hơn. Ông Dương Văn Pha ở đội 6 nói như đinh đóng cột: “Giá còn rẻ quá. Cứ phơi cho kỹ, đợi giá lên bán chưa muộn”. Còn anh Lý Văn Khuông ở đội 4 thì “thương trường” hơn: “Trên mạng thông báo giá 14.000 đồng/kg, mà thương lái chỉ trả mình có 12.500 đồng”. Những câu chuyện được mùa, đợi giá và niềm hân hoan của bà con làm cho núi rừng Đắk Ngo rạo rực. Đâu đó trong các bản Mông, một số nhà đang tính chuyện mua máy cày, máy xát lúa và cả máy giặt quần áo nữa. Có người còn muốn phá căn nhà cũ để làm nhà mới trị giá hơn 200 triệu đồng…

Bài 1: Về với Bộ đội Cụ Hồ

Bài 2: Gieo chữ

Bài 3: Họ hàng của người Mông

Bài 5: Thêm nhiều bản mới

Bút ký của LÊ PHI HÙNG