Bài 3: Họ hàng của người Mông
QĐND - Sau cơn mưa rừng xối xả, con đường xuống nhà già làng Giàng A Lừ ở Đội 6 lầy lội, trơn như đổ mỡ. Trên những sườn dốc vắt ngang những đồi cà phê, mấy cô cậu thanh niên người Mông gò lưng đẩy xe máy qua bùn đất. Thấy chúng tôi điều khiển xe vượt qua được những bãi lầy, một cô gái nói vọng tới: "Bộ đội ơi! Hôm nào xuống bản dạy mình đi xe với". Kèm theo tiếng nói lảnh lót là những tiếng cười giòn. Chà, con gái Mông cũng đáo để và quyến rũ quá. Chưa kịp ngoái lại xem mặt mũi các cô, chiếc xe của chúng tôi đã lăn bánh vào nhà của già làng. Căn nhà gỗ đóng cửa im ỉm, chỉ thấy hai chú chó chạy ra vẫy đuôi tíu tít. Trung tá Trần Thanh Danh - Chủ nhiệm chính trị Trung đoàn 720 nói vui: "Bộ đội như người nhà của các bản Mông. Bà con nói rằng: Bộ đội 720 là họ hàng của người Mông mà".
Có tiếng ho lụ sụ và tiếng chân người dịch gần về phía cửa. "Già làng Giàng A Lừ đấy" -Anh Danh quay sang phía tôi. Cánh cửa từ từ mở ra. Một người đàn ông gầy, chừng 60 tuổi, gương mặt hốc hác, mái tóc lưa thưa rối bù cất tiếng mời đứt quãng: "V..ào nhà đ…i Danh". Trung tá Danh nhanh chóng bước tới dìu già làng trở lại chiếc/ giường. "Anh b..ị sốt r…ét đấy". Tôi vừa đắp lại chiếc chăn cho già làng, thì vợ của ông đi làm rẫy về. Bà mau miệng: "May quá, bộ đội đến giúp mình đưa già làng lên bệnh xá với". Chúng tôi chưa kịp trả lời thì đã thấy tiếng Đại tá Vũ Văn Mài ở ngoài sân: "Không phải đi bệnh xá đâu. Tôi đưa bác sĩ đến khám bệnh cho già làng đây". Đi sau anh là bác sĩ Phan Tử Anh, Bệnh xá trưởng với túi thuốc và đồ nghề đeo bên hông. "Ôi già làng Giàng Seo Mài. Mình cám ơn nhiều nhé. Sao cán bộ biết chồng mình ốm mà đến thăm?" - Tiếng vợ già làng Giàng A Lừ ở sau bếp. "Mình biết từ hôm qua, nhưng công việc bận quá". Trong lúc bác sĩ Phan Tử Anh đo huyết áp, đo nhiệt độ cho bệnh nhân, tôi còn ấn tượng với câu nói: "Già làng Giàng Seo Mài" và già làng xưng "anh" với bộ đội. Phải quý trọng vị đại tá này lắm, coi bộ đội như người nhà, bà con mới nói như thế.
 |
| Ông Dương Văn Phông ở Đội 4 thông báo tình hình bản Mông với Đại tá Vũ Văn Mài. Ảnh: Phú Hưng |
Nhớ lại những ngày đầu về Đắk Ngo, cả 4 bản Mông trong khu dự án KTQP thì hơn 85% số người bị bệnh sốt rét. Nhiều hôm, bệnh xá của đơn vị phải tiếp nhận 20 bị sốt rét đến cấp cứu, trong khi giường bệnh chỉ có 10 chiếc. Nhìn cảnh bà con bị bệnh tật hành hạ, Vũ Văn Mài trăn trở khôn nguôi. Nằm trên trung đoàn bộ mà đầu óc anh lại chập chờn với các bản Mông. Phải tìm cách ngăn ngừa dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe cho đồng bào. Những cuộc họp của Đảng ủy, ban chỉ huy trung đoàn diễn ra khá sôi nổi. Tất cả đều nhất trí phải huy động toàn lực lượng để chống dịch sốt rét. Những ngày sau, Trung đoàn trưởng Vũ Văn Mài và các cán bộ cấp dưới dẫn bộ đội xuống các bản Mông. Bộ đội hướng dẫn bà con phát quang bụi rậm, vệ sinh nhà ở và dụng cụ trong gia đình. Lực lượng của bệnh xá đi phun thuốc diệt muỗi khắp bản. Ban chỉ huy Trung đoàn 720 quyết định trích quỹ đơn vị, mua tặng những gia đình khó khăn chăn, màn, chiếu để đồng bào tránh muỗi. Nửa năm sau, số người mắc bệnh sốt rét đã giảm hơn 70%. Một năm sau nữa, số người bị sốt rét ở các bản Mông chỉ còn 2%.
Nếu Vũ Văn Mài không mặc quân phục, nhiều người cứ nghĩ anh là một người đàn ông Mơ Nông, Ê Đê hay Ba Na của Tây Nguyên. Đã thành thói quen, mỗi khi bước ra khỏi đơn vị, anh đều đội mũ cối, quần xắn tới gối để sẵn sàng đi xuống các bản Mông hay hăm hở vào đồi cà phê, vườn điều. Anh tâm sự: "Cái số của tôi là phải gần gũi với bà con dân tộc thiểu số". Nhưng tôi lại nghĩ: "Anh có duyên với núi rừng Tây Nguyên. Và núi rừng Tây Nguyên, bà con các dân tộc ở đây cần tới anh". Vũ Văn Mài có giọng nói ồm ồm. Thế nhưng ai đã nghe những âm thanh ồm ồm ấy, sẽ cảm thấy thật ấm áp, dễ gần, dễ mến đến có thể tin tưởng ngay vào con người "chân đất, thật tình, hết lòng vì công việc" này. Nhìn gương mặt và nghe nụ cười, giọng nói của anh, dường như mọi khó khăn đều được giải quyết, mọi vướng mắc đều có thể vượt qua...
Năm 1975, Vũ Văn Mài lên đường nhập ngũ và đóng quân ở Tây Nguyên. Trong cái nắng, cái gió của đại ngàn, anh thấy bà con dân tộc thiểu số sao cực khổ quá. Làm thế nào để bà con hết khổ trên vùng đất màu mỡ này? Học xong lớp đào tạo giám đốc doanh nghiệp ở Hà Nội, Vũ Văn Mài trở lại Tây Nguyên nhận cương vị Phó giám đốc Công ty 74 của Binh đoàn 15. Chẳng hiểu sao, Tây Nguyên hùng vĩ và bà con các dân tộc cứ thế trở nên thân thiết, gắn bó với anh. Những năm tháng mở đất, khai phá và xây dựng khu KTQP, Vũ Văn Mài cùng đồng đội giúp hàng ngàn bà con Đức Cơ có công ăn việc làm ổn định. Có bộ đội, bà con các dân tộc Tây Nguyên biết cách trồng, chăm sóc và thu hoạch cà phê, cao su. Hai năm sau, tỷ lệ hộ đói nghèo ở khu KTQP huyện Đức Cơ chỉ còn 12%, so với hơn 60% trước đó. Trong khu KTQP, những trường học, trạm xá, nhà sinh hoạt văn hóa mọc lên, đem tri thức và niềm vui đến cho mọi nhà...
Tưởng sẽ duyên nợ suốt đời với Gia Lai, nhưng khi Binh đoàn 16 được thành lập thì Vũ Văn Mài được cấp trên điều về mảnh đất phía nam Tây Nguyên. Mọi thứ lại bắt đầu từ con số không. Và bài ca mở đất, xây dựng cứ thế cuốn hút anh cùng đồng đội cho đến ngày hôm nay.
 |
| Bộ đội hướng dẫn người Mông trồng cà phê. Ảnh: Phú Hưng |
Ngày mới về Đắk Ngo. Chẳng hiểu sao, bà con người Mông ai cũng cảm mến người chỉ huy có nước da đầy màu nắng, giọng nói chậm rãi, đi thoăn thoắt từ nhà này, đến nhà khác để giục bộ đội giúp dân dựng nhà. Anh chỉ huy ấy nói với già làng Hạng Sào Vảng: "Già làng giúp bộ đội động viên mọi người yên tâm làm ăn nhé. Có khó khăn gì cứ nói để đơn vị giúp đỡ". Hôm giao đất sản xuất, người chỉ huy đó cũng chạy ngược, chạy xuôi, hướng dẫn bà con cắm cọc, đo đạc. Hơn 10 ngày phát cây, dọn cỏ xong, cán bộ cùng bộ đội xuống dạy bà con kỹ thuật trồng trọt, chăm sóc cây điều, cây cà phê. Một năm sau, cán bộ xuống họp dân nói: "Bộ đội đã xây dựng xong cái trường, cái lớp. Đề nghị bà con đưa các cháu đủ tuổi đến trường để học cái chữ của Bác Hồ". Đồng bào vỗ tay rầm rầm. Khi biết đó là Trung đoàn trưởng Vũ Văn Mài, già làng nói với mọi người: "Chỉ huy bộ đội như già làng của mình đó. Cán bộ Mài nói gì, thì bà con phải nghe".
Để hiểu và giúp đỡ đồng bào Mông hiệu quả hơn, Vũ Văn Mài rất hay xuống thăm bà con. Anh lắng nghe các già làng, nghe người dân giảng giải về phong tục, tập quán và đời sống văn hóa của người Mông. Những điều tốt đẹp, anh khuyên bà con cố gắng bảo tồn và phát huy, còn những hủ tục lạc hậu thì nhờ già làng và những hạt nhân tích cực tuyên truyền để bỏ dần. Gần gũi với các gia đình Mông, Vũ Văn Mài thấy họ chẳng khác gì những người thân trong gia đình mình. Đức tính cần cù lao động, thông minh, hiếu khách đã làm cho bà con hòa nhập rất nhanh với cuộc sống và cộng đồng. Ở khu KTQP này, người Mông gọi anh với cái tên thân thương: Già làng Giàng Seo Mài. Cái tên ấy dần dần đi vào đời sống của đồng bào như một sức mạnh tinh thần lớn lao. Cứ khó khăn, trở ngại là người ta nhớ ngay đến "già làng Giàng Seo Mài". Chẳng thế mà từ việc của gia đình này, bắt vạ gia đình kia vì có đôi trai gái quan hệ bất chính, chuyện làm nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng, chuyện sinh đẻ, hay cả những vụ việc cãi nhau thường ngày là bà con đều muốn "già làng Giàng Seo Mài" đến giải quyết giúp. Giữa năm 2008, bản người Mông ở Đội 4 báo lên "già làng Giàng Seo Mài" một vụ vợ chồng anh Vừ A Minh đi xe máy đâm vào chiếc xe máy khác của một người Kinh đậu bên phải đường ở dốc. Vợ chồng Vừ A Minh cứ bắt vạ anh chàng người Kinh phải mua cho họ chiếc xe máy mới. Họ lý luận: "Vì cái xe máy của mày đứng ở bên đường, cho nên tao mới đâm phải. Mày tưởng tao đi xe giỏi lắm đấy à. Mày phải đền xe cho tao thôi". Già làng Dương Văn Phông nói thế nào Minh cũng không nghe. Anh ta còn cao giọng: "Mời cán bộ Mài xuống giải quyết giúp mới được". Nghe chuyện như vậy, Vũ Văn Mài phải bỏ dở cuộc họp cơ quan để xuống Đội 4. Anh giải thích, xe của người Kinh đậu bên phải đường là đúng luật, còn xe của Vừ A Minh đâm phải là sai. A Minh phải học thêm cách lái xe và Luật Giao thông mới chạy xe an toàn. Nghe cán bộ giải thích, Vừ A Minh cười nói: "Đúng là mình mới biết đi xe mà. Mình chưa biết tránh".
Kể chuyện về đồng bào Mông, Đại tá Vũ Văn Mài nói: "Bà con rất hiền lành, thật thà và chịu khó lao động. Nếu quan tâm, đầu tư tốt để đồng bào phát triển sản xuất, thì cuộc sống ở đây sẽ khá lên rất nhanh. Bà con người Mông đã đóng góp một phần không nhỏ cho sự phát triển, đổi thay của mảnh đất này". Gần 10 năm gắn bó với các bản Mông, "già làng Giàng Seo Mài" và đơn vị đã giúp 100% số hộ gia đình người Mông trong dự án thoát nghèo, gần 50% số hộ có kinh tế khá giả. Già làng Hạng Sào Vảng khoe với tôi: "Nhà nào cũng có một cái ti vi và có ít nhất một cái xe máy đấy. Nhà thằng Giàng A Páo, Sùng Dũng Di còn mua được cả máy cày, máy xát lúa, tủ lạnh và làm nhà gỗ trị giá hàng trăm triệu đồng kia". Không chỉ riêng Đại tá Vũ Văn Mài, mà bà con dân tộc Mông muốn coi tất cả bộ đội của Trung đoàn 720 là những "già làng", "trưởng bản" của mình...
Bài 1: Về với Bộ đội Cụ Hồ
Bài 2: Gieo chữ
Bài 4: Đổi đời bên suối Đắk Ngo
Bút ký của Lê Phi Hùng