Bài 1: Về với Bộ đội Cụ Hồ
QĐND - Một vùng đất nằm trong những vòng cung của núi đồi, giữa những cánh rừng xanh thẳm được người Mơ Nông đặt tên là Đắk Ngo.
Năm năm trước, để vào được xã Đắk Ngo, huyện Tuy Đức, tỉnh Đắc Nông, cần phải có những lái xe cừ khôi, biết cách vượt qua những đoạn đường đầy ổ voi, ổ trâu ngập ngụa bùn nước mỗi khi mưa xuống. Về Đắk Ngo vào mùa cà phê chín, tôi như lạc vào núi rừng của chàng Đam Sam và nàng Xinh Nhã trong sử thi Tây Nguyên. Thung lũng xòe màu xanh của cà phê, của lúa, của mì để hứng trọn cái nắng, cái gió và cả những trận mưa rừng dữ dội. Mưa tháng 11 rầm rầm, nhuộm con suối Đắk Ngo, Đắk Sin đỏ ngầu, có lúc dòng chảy sôi lên sùng sục. Gặp mưa, các ngọn núi ướt thẫm, y như được gội đầu sau một mùa khô bạc tóc. Đến khu kinh tế - quốc phòng (KTQP) do Trung đoàn 720 (Binh đoàn 16) quản lý, không gian mở ra ào ạt. Tràn đầy vào ánh mắt là sự sống đang sinh sôi, nảy nở và cả dáng những thiếu nữ Mông thướt tha trong váy áo sặc sỡ, chúm chím môi cười bên hiên nhà.
 |
Người Mông về bản mới. Ảnh: Quang Sáng |
Ngồi trong căn nhà gỗ 3 gian rộng thoáng, già làng Hạng Sào Vảng rít một hơi thuốc lào căng lồng ngực. Ông ngửa đầu, lim dim đôi mắt, từ từ nhả những làn khói vào bụi mưa nói với vợ: “Mưa nhiều thế này khéo có lũ đấy. Bảo mấy đứa đừng lên rẫy vội”. Người vợ trả lời: “Tôi đã dặn từ sáng sớm rồi”. Câu nói của vợ ông nghe như một câu hát. Câu hát mà ông đã ngất ngây, say đắm ở phiên chợ Bắc Hà từ hồi xa lắc. Nhìn làn mưa rơi, bỗng dưng ký ức của những ngày đầu đến Đắk Ngo hiện ra bổi hổi trong tâm trí già. Năm 2002, khi người Mông theo bộ đội Binh đoàn 16 về đây mới hình thành ra các bản chạy dọc theo con suối Đắk Ngo…
*
* *
Hơn 10 năm trước, một số gia đình người Mông bỏ những mỏm đá tai mèo chót vót trên núi cao ở Tây Bắc để vào Tây Nguyên, hy vọng trốn được cái nghèo khổ. Ở Mèo Vạc, Bắc Hà, Điện Biên, Sơn La… nhiều bản Mông mở mắt ra chỉ nhìn thấy đá. Những thành núi đá nhọn hoắt, như cắm vào mắt người sự đói nghèo, gian khổ. Người Mông đi chợ, lên rẫy toàn bằng chân. Nhà nào khá mới có ngựa thồ. Hơn một nửa bản Mông của mình mới hết mùa đã bị đói. Không có gạo ăn, bà con phải lên rừng đào củ. Không phải người Mông lười lao động, nhưng làm còng cả lưng, bạc cả tóc mà hạt thóc chẳng chịu chạy vào nhà. Mùa đông, cái rét như cắt từng nếp da, thớ thịt, thế mà đàn ông, đàn bà và cả trẻ con nữa phải gùi đất đổ vào hốc đá để bỏ hạt lúa. Đá cắt chân ứa máu. Vậy mà đến lúc thu hoạch, hầu như chẳng nhà nào đủ ăn quá hai tháng. Nghèo đói, bọn trẻ con không muốn đến trường. Nhiều đứa trời rét căm căm mà cứ phải ở truồng, lạnh thâm tím cả mặt mày. Nghe nói ở Tây Nguyên đất đai màu mỡ, người thưa có thể vào đó phát rừng, làm rẫy trồng lúa, trồng khoai để sống, thế là đàn ông bàn với nhau bỏ quê, bỏ mồ mả tổ tiên ra đi...
Tây Nguyên ít đá hơn Tây Bắc, nhưng núi rừng hiểm trở cũng không kém. Vào Cư Jút, Đắc G’long, Đắc Min, Ma Đ’rắc người Mông sống du canh, du mục. Cứ thấy chỗ nào không có người, là đốt cây, phá rừng làm rẫy trồng lúa, trồng mì, trồng khoai. Thu hoạch xong lại bỏ đi làm cái rẫy khác. Bọn trẻ con ngơ ngác hỏi người lớn: “Sao không làm cái bản để ở?”. Người lớn nhìn nhau, ứa nước mắt. Mấy năm lang thang từ cánh rừng này, đến ngọn đồi kia, cái chân, cái đầu người Mông nặng trĩu như bị đá đè. Nhiều người bị sốt rét hành hạ tím cả môi, rụng cả tóc. Một vài người đã chết . Đám trẻ con đói ăn, khóc khô cả mắt. Bao giờ cái nghèo mới chịu buông tha cho người Mông ta?
 |
Người Mông về bản mới. Ảnh: Quang Sáng |
Đang lúc hoang mang, đầu năm 2002, nhiều tốp cán bộ dẫn theo bộ đội đến gặp những người Mông di cư tự do. Họ vận động bà con theo bộ đội về chỗ mới làm nhà, cấy lúa. Họ bảo: “Bộ đội đã làm cái đường, phát cỏ cây để cấp đất cho bà con làm nhà, làm nương rẫy. Bà con về đó sẽ được quan tâm, giúp đỡ nhiều”. Những ánh mắt nhìn nhau ngờ vực. “Liệu bộ đội có tốt với người Mông đến như vậy không?”. Có người thì thầm vào tai ông Vảng: “Đừng nghe bộ đội. Chúng nó lừa để bắt người Mông ta về Tây Bắc đó”. Ông không tin. Những năm đánh Pháp, ông đã từng là một anh Vệ quốc đoàn. Những ngày tháng tiễu phỉ ở Sa Pa (Lào Cai), Phong Thổ (Lai Châu), khổ vậy mà bộ đội vẫn dành thời gian đi làm công tác dân vận giúp dân sửa nhà, trồng lúa ngô. Bộ đội Cụ Hồ đi đâu cũng giúp đỡ nhân dân, cũng thương dân. Nghe cán bộ giải thích về việc Chính phủ đã cấp kinh phí để xây dựng khu dự án cho bà con người Mông đến ở, già làng cứ tưởng mình nghe lầm. Đến khi bộ đội Binh đoàn 16 đưa ô tô tới chở bà con về Đắk Ngo, nhiều người lại hỏi ông lần nữa: “Có đi theo bộ đội không?”. Ông nói ngay: “Theo chứ. Bộ đội chỉ muốn điều tốt cho người Mông ta mà”. Chỉ hơn một tháng, hơn 300 hộ người Mông di cư tự do trên địa bàn tỉnh Đắc Lắc đã đồng ý theo bộ đội Binh đoàn 16 vào khu dự án KTQP Đắk Ngo.
Về Đắk Ngo, vợ ông Vảng ôm mặt khóc. Những người vợ khác cũng ủ rũ như tàu lá héo. Giàng ơi, chỗ này hoang vắng, xa xôi còn hơn những nơi người Mông mình đã từng đến. Những con đường đất mưa thì trơn như bôi mỡ, còn ngày nắng thì bụi mù mịt. Những cánh rừng xác xơ. Và cả con suối cũng oằn mình vì sự cô đơn, hiu quạnh. Thế mà bộ đội nói là nó đã “đẹp” hơn nhiều so với ngày các anh đến đây hình thành dự án. Một số nhà sợ quá, bỏ đi khỏi Đắk Ngo. Đêm ngày, mình phải động viên vợ và bà con: “Đừng lo, có bộ đội người Mông ta sẽ sớm hết khổ mà”. Đúng như vậy. Những ngày sau, bộ đội đã đến từng nhà để phát gạo, muối, chăn, màn và cấp đất làm nhà cho dân. Họ còn chở cả tôn, tre, nứa, cấp tiền để giúp dân làm cái nhà mới. Hai mươi lần ông mặt trời thức dậy, 4 bản Mông đã in bóng xuống dòng suối Đắk Ngo. Tùy theo số người trong gia đình, mỗi hộ còn được cấp từ 0,5 đến một héc-ta đất để trồng điều, trồng cà phê.
Có đất, có nhà, nhưng cuộc sống của bà con người Mông trong khu dự án KTQP Đắk Ngo còn lầm lũi lắm. Khi ông mặt trời chưa thức dậy, cả bản đã lục đục gọi nhau lên rẫy. Đến giữa trưa, những người lao động chỉ tranh thủ ăn miếng cơm, miếng ngô đã nguội, uống vài ngụm nước là lại cúi mặt cuốc đất trồng cây. Khi ông mặt trời đi ngủ, mọi người mới về bản. Bộ đội cũng lên rẫy với bà con. Các anh dạy đồng bào kỹ thuật trồng và chăm sóc vườn cây. Một tháng, hai tháng… rồi bốn tháng, những cây lúa, cây khoai, cây mì (sắn) đã cho vụ thu hoạch đầu tiên. Đến ngày thu hoạch, đám trẻ con cứ đòi theo cha mẹ lên rẫy. Chúng lăn long lóc vui đùa cùng với những củ khoai, củ mì. Tối đến, nhà này chạy sang nhà kia hỏi nhau: “Nhà mày có nhiều bắp, nhiều mì không?”. “Nhiều lắm. Vợ con tao sắp hết đói rồi”. Mấy ngày sau nữa, nồi cơm của nhà ai cũng đầy ắp. Có nhà còn thịt gà để cúng Giàng và mời già làng đến ăn. Không chỉ bắp, mì, đỗ được mùa, mà những cây điều trong khu dự án cũng gồng nắng, gồng mưa vươn lên. Người Mông ngoài việc canh tác, trồng trọt trên diện tích đất được cấp, bà con còn được nhận khoán chăm sóc các vườn điều, vườn cà phê của trung đoàn nữa. Mỗi lần đi tỉa cây, dọn cỏ, bà con đều có thêm thu nhập. Chỉ hơn một năm, người già, người lớn và bọn trẻ con đều may được nhiều quần áo mới.
*
* *
… Bộ đội Binh đoàn khen: “Người Mông chịu khó lao động sản xuất quá”, làm cho ai cũng vui cái bụng. Ở Đắk Ngo, bà con đi làm cứ như là đi hội. Nhà này gọi nhà kia, tiếng nói râm ran đến tận đồi cà phê, vườn điều, vườn mì, ruộng lúa. Trong số những người lên nương rẫy ấy, có rất nhiều bộ đội, công nhân do Trung đoàn trưởng Vũ Văn Mài chỉ huy đến hướng dẫn người Mông cách trồng và chăm sóc cây cà phê, cây điều, cây mì. Gần một năm đến Đắk Ngo, những cây cà phê, cây điều đã cao bằng đầu đứa trẻ ba tuổi. Những ruộng lúa nước chín vàng rực. Những nương mì cũng chuẩn bị cho thu hoạch. Cả một vùng đất hoang sơ trước đây, nay ngút ngàn màu xanh của sự sống. Ai cũng mong ước thung lũng Đắk Ngo này sẽ ngày càng đông vui, sầm uất hơn. Có bản làng, những con đường công vụ đã được hình thành. Cán bộ Phạm Sở là người chỉ huy bộ đội mở đường. Những chiếc xe ủi, xe xúc thi nhau làm việc cùng công sức của bộ đội ngày đêm đổ xuống biến những sườn đồi bằng phẳng hơn, dễ đi hơn. Con đường chính nối Quốc lộ 14, rồi trườn theo các sườn núi, chạy thẳng vào Trung đoàn 720 và tỏa xuống các đội sản xuất. Có đường đi, hàng hóa trong khu dự án đã được giao lưu với thị trường, những mặt hàng thiết yếu phục vụ cuộc sống cũng chảy từ ngoài Gia Nghĩa, Kiến Đức và cả dưới Đồng Xoài đến Đắk Ngo. Những con đường mới ấy được mọi người gọi vui là con đường Phạm Sở.
Hệ thống đường vừa làm xong thì một số trường học cũng mọc lên. Mỗi đội người Mông có một lớp mẫu giáo. Bọn trẻ trước đây chỉ biết nô đùa trong bản, hay theo bố mẹ lên nương rẫy, nay đã có chỗ để học hát, học múa, học cái chữ của Bác Hồ. Rồi bệnh xá, nhà sinh hoạt cộng đồng được xây dựng để chăm sóc sức khỏe cho người dân và là nơi để bà con người Mông sinh hoạt tôn giáo theo pháp luật. Vào buổi tối, thi thoảng người ta được nghe tiếng khèn Mông gọi bạn vút lên da diết. Và đâu đó vang lên câu hát của cô gái Hạng Thị Dóa, cháu nội già làng Hạng Sào Vảng: “Muốn no đủ thì hỏi hai bàn tay. Muốn giàu sang thì cái đầu phải nghĩ. Gái đẹp không biết làm lanh cũng xấu, trai khỏe không biết làm rẫy cũng hèn…”.
Bút ký của LÊ PHI HÙNG
Bài 2: Gieo chữ