Sau cuộc gặp với Bảy Nhu, tôi sáng tỏ phần nào về quá trình chôn cất, những tù binh đã được đối xử như thế nào, chế độ sinh hoạt ra sao, nhưng những cái chết xảy ra liên tục trong tù vẫn là một ẩn số. Tôi nghĩ đến ông Nguyễn Văn Nam (tên thường gọi là Hai Nam), một trong hai người đã từng có thời gian làm việc ở nhà tù Phú Quốc, hiện nay còn sống trên đảo. Ông Hai Nam trước đây làm trưởng ban tiếp liệu, chuyên lo việc tiếp nhận nhu yếu phẩm, thực phẩm cho nhà tù và hiện nay là Trưởng ban văn hóa thị trấn An Thới (Phú Quốc).

Khẩu phần ăn và... cuộc giành giật

Lội bộ theo con đường chính của thị trấn An Thới, quẹo qua cầu cảng là cơ sở nước mắm Nam Hương của ông Hai Nam. Đó là một người đàn ông có dáng người cao lớn, da ngăm đen, khuôn mặt trông hiền với hàng ria mép tỉa gọn. Dù mới gặp lần đầu, nhưng ông Hai Nam đã kể cho tôi nghe về những năm tháng đã qua mà nhiều khi ông muốn cố quên đi. Ông Hai Nam kể:

Ông Hai Nam, trước đây là Trưởng ban tiếp liệu trại tù binh Phú Quốc trò chuyện với tác giả bài viết (bên trái). Ảnh: Khánh Băng

- Tôi vốn quê gốc Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. 21 tuổi tôi bị chính quyền ngụy tổng động viên bắt đi lính quân cảnh thuộc tiểu đoàn 5 quân cảnh, đóng ở Sài Gòn. Năm 1969 tôi bị điều ra trại tù binh Phú Quốc, phân công về khu giam 8 để tăng cường lực lượng canh gác trại giam khi lượng tù binh ở đây tăng đột biến. Tôi làm quân cảnh gần 3 tháng rồi sau đó bị điều về Sài Gòn. Đến đầu năm 1971, tôi lại bị điều ra tiếp và được giao làm Trưởng ban tiếp liệu quân xa, chuyên tiếp nhận, vận chuyển vật tư, lương thực, thực phẩm phục vụ trong tù.

- Con số thống kê lâu nay cho thấy, số lượng tù binh lúc cao điểm nhất là vào cuối năm 1972 là khoảng 41.000 người. Hồi ông làm trưởng ban tiếp liệu, con số trên có chính xác với suất ăn không? Tôi hỏi xen ngang câu chuyện ông Hai Nam.

- Chính xác. Vì hồi đó, tôi nắm rất rõ suất ăn hằng ngày trong trại tù, cao nhất là hơn 40.000 suất! Hơn nữa, tôi còn rất rành các mánh khóe ăn bớt, cắt xén khẩu phần ăn của tù binh của nhà thầu cung cấp lương thực, thực phẩm cho trại tù. Vào năm 1971, Mỹ-ngụy tuyên bố trợ cấp cải thiện bữa ăn của tù binh. Giá trị mỗi khẩu phần ăn của tù binh cao hơn của lực lượng quân cảnh. Tiền ăn lên 38 đồng 50 xu/1 phần/tù binh, còn quân cảnh chỉ có 36 đồng. Sau này tù binh tăng thêm 50 đồng/1 phần/tù binh. Tuyên bố là vậy, nhưng trên thực tế, khẩu phần ăn của tù binh ngày càng thậm tệ. Mỗi bữa ăn chỉ có cơm mốc và cá liệt khô loại người ta thường dùng làm phân bón cho cây cối. Việc cắt cơm đối với các phòng giam, tù binh diễn ra khá thường xuyên, nhất là khi có trường hợp chống đối...

Chuồng cọp kẽm gai dùng để tra tấn tù binh, trưng bày tại Di tích nhà tù Phú Quốc

Ngưng một lát, thấy tôi chăm chú nghe, ông Hai Nam kể tiếp:

- Việc cung cấp thực phẩm cho trại tù binh đều qua các nhà thầu thực hiện. Việc bỏ thầu cho trại giam với số lượng khổng lồ và các lực lượng quân đội ngụy ở Phú Quốc là nguồn lợi béo bở đối với những ai giành được thầu. Quyền chọn nhà thầu do Bộ chỉ huy quân cảnh ở Sài Gòn quyết định.

Bà Trần Lệ Thủy ở Sài Gòn là người giành được quyền làm tổng thầu cung cấp thực phẩm. Nói là “giành được” thì không đúng, vì vấn đề đấu thầu này có sự chia chác, câu kết, thỏa hiệp rất rõ. Bà Thủy là vợ của Trung tá Phước, Tư lệnh trưởng quân cảnh quốc gia ở Sài Gòn, nhờ có thế lực và quan hệ đã được Bộ tư lệnh quân cảnh cho làm tổng thầu. Do phải chia chác và vì lợi nhuận, Bà Thủy ăn bớt trắng trợn lượng thực phẩm cung cấp cho trại tù binh. Năm 1972, tỷ lệ hao hụt ngày càng lớn, tù binh đấu tranh đòi cấp đủ định lượng bữa ăn và cải thiện bữa ăn ngày càng nhiều. Tôi và mấy người trong bộ phận tiếp liệu báo cáo cho Trung tá Trần Bằng Dực, lúc đó là chỉ huy Trại giam tù binh Phú Quốc. Giữa bà Thủy và ông Dực vốn có xích mích do không sòng phẳng trong ăn chia từ việc bớt xén thực phẩm. Bà Thủy thường hay qua mặt ông Dực khi làm việc với cấp trên ở Sài Gòn. Vì vậy, ông Dực ra quyết định phạt bà Thủy về việc hao hụt lượng thực phẩm. Không chịu thua, ỷ mình có thế lực, bà Thủy kiện ông Dực tới Bộ chỉ huy Quân cảnh quốc gia và với ông Phước. Ông Phước thanh trừng bằng cách điều chuyển ông Dực về Bộ chỉ huy quân cảnh, không cho giữ chức chỉ huy trại tù nữa và trừng phạt những người trong ban tiếp liệu, trong đó có tôi. Vì vậy, tôi mới bị điều chuyển một mạch lên Tây Nguyên, bổ sung vào sư đoàn 23 chủ lực của quân đội ngụy. Khi về Sài Gòn, ông Dực không chịu thua, làm đơn kiện lại ông Phước. Sự việc trở nên rùm beng, báo chí Sài Gòn thời điểm đó cũng đề cập. Chính quyền Mỹ lúc đó vốn tuyên bố trợ cấp chế độ ăn uống cho tù binh nên không thể làm ngơ, đã cùng chính quyền ngụy tổ chức thanh tra, kết luận, thừa nhận việc ăn bớt và tham nhũng trong giao thầu cho bà Thủy là có thật. Ông Phước bị mất chức. Nhưng không hiểu sao, vụ việc chỉ được xử lướt qua. Bà Thủy lại tiếp tục làm tổng thầu cung cấp thực phẩm cho trại tù, việc ăn cắp thực phẩm ngày càng trắng trợn hơn.

- Sau vụ rùm beng đó, tôi đã làm đơn kiện lên Bộ Tổng Tham mưu ngụy. Tôi về quê sống và đến năm 1975, trở lại Phú Quốc cùng vợ và sống cho đến nay. Chiến tranh đã qua, tôi được đi cải tạo và hiểu được thế nào là chính nghĩa, cố gắng làm những điều có ích cho xã hội. Hoàn cảnh của quá khứ, đôi khi mỗi người bị đẩy buộc phải đứng về bên này, hay bên kia, chính nghĩa hay phi nghĩa. Và rồi, chính nghĩa luôn thắng và sự gian trá cuối cùng cũng bị thời gian lật tẩy anh ạ!

Ném đá giấu tay

Sự xảo trá của chế độ nhà tù ngụy không chỉ là những suất ăn của tù binh mà ngay cả những hy sinh đầy khí tiết của những tù binh cũng bị chúng làm hoàn toàn sai lệch, bưng bít sự thật. Tại di tích lịch sử Nhà tù Phú Quốc hiện nay đang trưng bày chiếc chảo mà bọn cai tù đã từng ném tù binh vào chảo nước đun sôi. Chúng tôi may mắn được ông Vương Tiến Dũng, cựu tù binh Phú Quốc vượt ngục thành công và ở lại đảo tiếp tục chiến đấu cho đến năm 1972, hiện nay là Phó trưởng ban liên lạc cựu tù binh Phú Quốc tại TP Hồ Chí Minh là người biết rất rõ về hiện vật này kể lại.

Sự kiện này xảy ra vào cuối tháng giêng năm 1971, anh em tù binh khu B10 liên tục đấu tranh về chế độ đàn áp tù binh. Bọn giám thị truy tìm mãi vẫn không ra người đứng đầu tổ chức đấu tranh. Một hôm, đó là ngày 30-1-1971, giám thị gọi 15 người tình nghi lên để tra khảo. Nhưng tất cả anh em tù binh đều phản đối, không khai. Biết thuyết phục không được, tên Huỳnh, giám thị khu giam chỉ đạo lính dùng dùi cui đánh mạnh vào đầu, vào mặt các anh. Quá bức xúc trước hành động tàn ác của chúng, các anh Đặng Văn Bê, anh Dương Văn Mến hô to:

- Đả đảo Mỹ-Thiệu! Hồ Chí Minh muôn năm!

Một phần của chảo lá sen dùng để luộc tù binh ở phân khu B2. Ảnh tư liệu

Ngay lập tức, anh Bê bị chúng kéo ra giữa sân, trùm bao bố vào người và khiêng thẳng xuống bếp ném vào chảo nước đang sôi. Một lát sau, chúng khiêng anh Bê từ nhà bếp ra trước mặt anh em và mở bao bố, kéo anh Bê ra khi anh đã ngưng thở, thân thể bị luộc chín, trắng dã...

Sau vụ tra tấn dã man kiểu thời trung cổ ấy, cái chết của anh Bê đã được chúng “hợp thức” bằng các phiếu trình cấp trên đầy gian trá, che giấu tội ác dã man. Trong phiếu trình số 630/TTM, đề ngày 12-3-1971, gửi Tổng trưởng quốc phòng do tên Trung tướng Nguyễn Văn Mạnh, Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu quân đội ngụy ký, chúng đệ trình về nguyên nhân cái chết của anh Đặng Văn Bê như sau: “Tù binh Đặng Văn Bê, số tù 51410846, đã tắt thở tại bệnh xá vì kiệt sức sau 2 ngày tuyệt thực”. Cuối phiếu đệ trình này, chúng còn ghi: “...Vậy kính trình ông Tổng trưởng tùy nghi thông tin cho Hội Hồng thập tự quốc tế tại Việt Nam”. Câu cuối chúng ghi như thế vì lẽ, vào thời điểm này, Hội Hồng thập tự quốc tế tại Sài Gòn nhận được nguồn tin về việc chính quyền Mỹ-ngụy hành hạ dã man tù binh nên đã tổ chức kiểm tra, yêu cầu khi có tù binh chết phải báo cáo cụ thể cho Hội này biết.

Khi nói về những sự man trá, bưng bít sự thật của bọn chỉ huy nhà tù, ông Ba Toản, người từng bị giam ở khu biệt giam 2, từng vượt ngục thành công và hiện nay còn sống trên đảo Phú Quốc trong lần gặp tôi mới đây khẳng định rằng:

- Các báo cáo về các trường hợp tù binh chết đều man trá hết. Chúng tôi chứng kiến những hành động khủng bố, giết chóc hằng ngày. Nhưng khi có đoàn kiểm tra quốc tế nào đến là chúng tìm cách bưng bít sự thật, không cho đoàn tiếp xúc tù binh và nhất thời cải thiện bữa ăn cho tù binh, cho vui chơi trong khu giam để che mắt đoàn kiểm tra. Nhiều trường hợp chúng vu cáo anh em tù binh đánh chết tù binh trong phòng để gỡ tội cho giám thị. Thật là sự gian trá đến nực cười. Hồi đấy, anh em trong tù phản đối dữ lắm! Sau này, do đấu tranh dữ quá, chúng dùng hình thức thủ tiêu tinh vi, là cho anh em vào rừng rồi thủ tiêu mất tích luôn, rồi chúng báo cáo là đã trốn thoát. Về trường hợp của liệt sĩ Châu Văn Khánh, tôi và các cựu tù binh và các đồng chí trong ban qui tập hài cốt liệt sĩ thuộc huyện Phú Quốc đều biết rõ. Liệt sĩ Khánh có số chân bia 778, quê ở Bình Định, được đội cất bốc liệt sĩ huyện Phú Quốc qui tập từ năm 1985 và phát hiện có nhiều xương bị nhiều đinh đóng trổ qua. Điều này khẳng định liệt sĩ Khánh bị tra tấn dã man cho đến chết. Từ chi tiết này, ban liên lạc cựu tù binh Phú Quốc đã tìm hiểu và phát hiện hồ sơ của cảnh sát ngụy về cái chết của anh Khánh (tài liệu này hiện còn lưu trữ tại Cục Lưu trữ Bộ Nội vụ) gồm có 19 trang, có cả ảnh chụp, lại thể hiện nội dung ngụy tạo, giả mạo, mô tả anh Khánh vượt tường rào bị bắn chết.

- Vì sao từ bọn chỉ huy trại giam tù Phú Quốc đến các bộ sậu Tổng tham mưu của chính quyền ngụy luôn phải ngụy tạo các phiếu trình, hồ sơ về cái chết của tù binh để che giấu tội ác? Tôi hỏi ông Ba Toản.

- Điều này xuất phát từ quy ước Giơ-ne-vơ mà chính quyền ngụy đã ký anh ạ. Điều 13 qui ước này có ghi: “Tù binh phải luôn luôn được đối xử một cách nhân đạo, những hành động phi pháp hoặc sơ suất của quốc gia giam giữ làm thiệt mạng hoặc phương hại trầm trọng đến sức khỏe của một tù binh dưới quyền giam giữ đều bị nghiêm cấm và xem đó là sự vi phạm nặng nề quy ước này”… Để đối phó với qui ước này, những trường hợp chết, bộ máy nhà tù đều ngụy tạo hồ sơ để bưng bít sự thật và tìm mọi cách ngăn cản Hội Hồng thập tự quốc tế tiếp cận tù binh. Đến cuối năm 1972, Nguyễn Văn Thiệu ký một sắc lệnh với nội dung không cho báo chí ngoại quốc, hay bất kỳ ai tiếp cận, tiếp xúc tù binh cộng sản ở Phú Quốc. Ai vi phạm sẽ bị cách chức và trừng phạt nghiêm khắc. Sắc lệnh này đã lật tẩy dã tâm bưng bít, che đậy tội ác của một bộ máy nhà tù khổng lồ và chính sách tàn ác, dã man của chính quyền Thiệu hòng dập tắt khí tiết trung trinh của những người tù cách mạng.

Bài và ảnh: Đặng Trung Kiên

(Kỳ cuối: Xứng tầm lịch sử)

Bài 1: Tháng 9 trên đồi 100

Bài 2: Lời kể của người cai ngục