QĐND - Đến các khu dân cư của các công ty thuộc Binh đoàn 15, hình ảnh đẹp đọng lại mãi trong chúng tôi là tình đoàn kết, gắn bó giữa hộ công nhân người dân tộc thiểu số với công nhân người Kinh. Họ gắn bó với nhau bằng tình nghĩa sâu nặng, nâng đỡ nhau trong lao động sản xuất, trong cuộc sống đời thường, xây dựng khối đoàn kết bền chặt cùng nhau xây dựng Tây Nguyên…
 |
|
Đại tá Nguyễn Xuân Minh, Giám đốc công ty 78 hướng dẫn bà con dân tộc thiểu số xã Mo Ray (Sa Thầy. Công Tum) kỹ thuật trồng lúa nước. Ảnh: Văn Thiền
|
4.000 và nhiều hơn nữa…
Cho đến nay đã có hơn 4.000 hộ đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, với hơn 8.000 lao động đã và đang trực tiếp làm việc ở các công ty, xí nghiệp của Binh đoàn. Dù là công nhân hợp đồng dài hạn hay mùa vụ, bà con người dân tộc thiểu số đã thay đổi căn bản nếp nghĩ, cách làm, cuộc sống khác “một trời, một vực” so với trước đây. Kết quả ấy là nhờ sự “gắn kết” giữa các hộ lao động người Kinh của Binh đoàn với hộ đồng bào các dân tộc ở địa phương.
Đại tá Trần Quang Hùng, Giám đốc Công ty 74, nơi đi đầu trong việc tổ chức “gắn kết” kể với chúng tôi:
- Những ngày đầu các hộ đồng bào vào làm việc ở Công ty, năng suất lao động thấp lắm. Tất cả mọi công việc họ đều bỡ ngỡ, cán bộ, công nhân của công ty phải hướng dẫn tỉ mỉ, cụ thể từng động tác, “cầm tay chỉ việc” mà năng suất vẫn không nâng lên được. Ngoài ra, do phong tục tập quán lạc hậu, mỗi khi trong làng, trong bản có đám cưới, đám tang bà con nghỉ việc hằng tuần liền tổ chức ăn uống… Làm thế nào để giúp đồng bào biết làm ăn, giúp đồng bào bỏ các hủ tục lạc hậu? Đó là câu hỏi mà cả Binh đoàn phải tìm cách lý giải. Không thể lên lớp, cũng không “bắt” bà con phải làm thế này, phải làm thế kia… Và sáng kiến “gắn kết” giữa gia đình công nhân người Kinh với gia đình đồng bào dân tộc thiểu số được nêu lên. Với tư tưởng chỉ đạo là hoàn toàn bằng tình cảm, gắn kết trước hết là giúp nhau làm kinh tế, rồi mới đến giúp nhau xây dựng cuộc sống mới.
- Còn bây giờ thì sao?
- Khác hẳn rồi. Đồng bào tự giác bỏ hẳn tập quán lạc hậu, biết tính toán công việc một cách hợp lý, biết chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, thu nhập cao từ mảnh vườn của mình.
Qua câu chuyện với Giám đốc Trần Quang Hùng, chúng tôi được biết, hiện Công ty 74 đã có 685 hộ công nhân người Kinh của Công ty gắn kết với 685 hộ đồng bào, có 3 đội 100% công nhân là người dân tộc thiểu số tại chỗ. Anh Hùng cho biết:
- Lúc đầu chúng tôi chọn 30 cặp ở đội 16 làm thí điểm việc gắn kết. Các tiêu chí đề ra là giúp nhau cùng phát triển kinh tế, xóa bỏ những tập tục lạc hậu, cảnh giác không nghe theo luận điệu xuyên tạc của kẻ xấu phá hoại chính sách dân tộc của Đảng…Việc gắn kết làm cho công nhân người dân tộc và người Kinh gắn bó tình nghĩa với nhau như anh em, giúp nhau cách làm ăn, quan tâm nhau từ việc nhỏ đến việc lớn, việc gia đình và việc xã hội…
Chúng tôi đề nghị gặp một số cặp hộ tiêu biểu. Chị Đinh Thị Hoàng Hà, trợ lý Dân vận của Công ty, nói tiếng “đồng bào” như tiếng mẹ đẻ đưa chúng tôi xuống buôn. Gặp người già, con trẻ trong làng, Hà “líu lo”, “tay bắt mặt mừng”, ai cũng muốn kéo chị và cả đoàn về nhà mình. Hà bảo:
- Bọn em xuống làng như về nhà các anh ạ. Dân đã quý, đã tin, có gì cũng tâm sự, lấn cấn điều gì là hỏi ngay.
Đang vui câu chuyện, có tiếng gọi từ căn nhà ở ngay mặt đường. Hà bảo:
- Mời các anh vào thăm nhà của Rơ Manh Ly. Anh này vào làm công nhân từ năm 2004, lương bình quân đã đạt bảy, tám triệu đồng một tháng rồi đấy.
Thấy Hà, Rơ Manh Ly khoe ngay:
- Cán bộ à, mai nhà mình mua bộ xa-lông mới đấy, bộ này cũ rồi, có khách đến ngại lắm.
- Còn tốt mà, mua làm gì vội, để tiền làm việc khác – chúng tôi nói.
- Ồ! Cũ rồi, nhà xây rồi, xe hai ba cái rồi, phải có bộ xa-lông mới chứ.
Ly vừa rót nước mời khách, vừa tíu tít:
- Mấy việc lớn nhà mình đều hoàn thành rồi. Giờ làm ra chỉ để tiết kiệm cho các con thôi.
Đang nói chuyện với chúng tôi, bỗng Rơ Manh Ly quay sang chị Hà trao đổi gì đấy bằng tiếng mẹ đẻ. Chị Hà giải thích, Ly bảo rằng, còn một số hộ dân nữa rất muốn vào làm công nhân của Công ty. Nguyện vọng của bà con là có thêm đất để mở rộng diện tích cây cao su, nhưng ngặt nỗi Công ty lấy đâu ra đất, dự án xin mở rộng diện tích canh tác còn đang chờ UBND tỉnh và các ngành chức năng xem xét…
- Gắn kết với đồng bào Kinh tốt lắm cán bộ à. Bà con làng mình không gắn kết với các hộ công nhân của công ty thì chẳng biết bao giờ mới được như hôm nay. Dân làng mình ao ước tất cả đều được vào làm việc với Binh đoàn, được gắn kết nhiều, nhiều hơn nữa mới sướng hung cái bụng…
Nghe Rơ Manh Ly bộc bạch, chúng tôi đọc được trong mắt người thanh niên này khát vọng làm giầu, làm cho đời sống của mỗi gia đình trong buôn đều tốt lên qua việc gắn kết giúp đỡ nhau trong cuộc sống và sản xuất giữa các hộ công nhân của Binh đoàn với các hộ đồng bào dân tộc tại chỗ.
Đám cưới to nhất ở huyện Đức Cơ
Trung úy QNCN, Rơ Manh Mrao, đội phó Đội sản xuất số 13 Công ty 75, hãnh diện khoe với chúng tôi:
- Năm ngoái mình tổ chức đám cưới cho con trai ở nhà hàng lớn nhất thị trấn Đức Cơ. Năm nay mình xây nhà, không phải khoe với cán bộ đâu, nhà mình vào loại to nhất vùng hiện nay. Về nhà mới dứt khoát mình phải mời được các thủ trưởng Bộ tư lệnh Binh đoàn và các cơ quan vào dự.
- Mrao làm gì mà có nhiều tiền thế?
Chìa đôi bàn tay gân guốc, chai sạn, anh nói:
- Từ đôi bàn tay này, từ cái đầu mình nghĩ ra cả đấy. Nhưng phải nói thật với các anh, không có Binh đoàn, không có Công ty, không có sự hướng dẫn, giúp đỡ của các hộ công nhân người Kinh, không có cuộc sống văn minh như bây giờ đâu. Làng mình bây giờ nhà ai làm đám cưới, làm đầy tháng cho con, cho cháu, không còn ăn nhậu cả ngày, không còn cái cảnh cắt lá chuối rải dưới đất, bày thức ăn lên đó, chẳng bát đũa, chẳng ghế ngồi… Bây giờ hiện đại rồi, thuê rạp, thuê nhà hàng về nấu, tổ chức gọn nhẹ, tiết kiệm thời gian để còn giành thời gian ra vườn cao su, ra rẫy.
Chúng tôi biết Rơ Manh Mrao từ trước năm 2000 là người “cầm đầu” cả làng chống lại chủ trương khai hoang phát triển vườn cao su của Binh đoàn. Anh Xuân - Phó Tư lệnh Binh đoàn, nguyên là Giám đốc Công ty 75 kể, ngày ấy, Mrao “cứng đầu” lắm, giải thích thế nào cũng không nghe, “cãi tay đôi” với cán bộ, kiên quyết không cho công ty triển khai việc san ủi mặt bằng. Phải dần dà thuyết phục, phân tích thiệt hơn việc khai hoang là để lấy đất cho dân trồng cao su, trồng cà phê, để thoát đói, thoát nghèo… Chỉ đến khi cây cao su được trồng xuống, giao cho các hộ dân nhận khoán, Mrao mới ngộ ra việc làm sai của mình. Anh xung phong vào làm công nhân, được cán bộ dìu dắt giờ đã được chuyển thành quân nhân chuyên nghiệp, làm đội phó một đội sản xuất. Dân làng nhìn vào Mrao, học tập Mrao làm giầu.
Hôm chúng tôi xuống Đội 13, Công ty 75 gặp chị Phạm Thị Minh. Người con gái quê Thanh Hóa, giờ là người dân Làng Sang, xã Ia dơt, huyện Đức Cơ. Với tác phong của người làm công tác dân vận, chị nhỏ nhẹ:
- Gia đình em gắn kết với gia đình ông Rơ Lan Vinh. Em nhận ông làm bố nuôi. Lúc nào rảnh rỗi là em sang chơi, trò chuyện, hỏi han, giúp đỡ chuyện làm ăn, săn sóc việc gia đình… Gặp việc gì em làm việc nấy. Thấy gia đình làm cơm, em cũng vào bếp giúp nấu nồi canh, kho con cá. Thấy trẻ con ốm, em tự nguyện chở cháu đến trạm xá khám bệnh xin thuốc. Nhìn mảnh vườn nhỏ gần nguồn nước, em mua giống rau về cùng các anh, các chị cuốc đất trồng tỉa… Từ những việc tưởng chừng như đơn giản ấy, ông bà, các anh, các chị, các cháu tin vợ chồng em, có việc gì cũng gọi, có con cá, mớ rau đều chia cho. Tình cảm giữa hai gia đình chúng em ngày càng sâu sắc, bền chặt từ những việc nhỏ như vậy. Bây giờ em cảm thấy ngày nào hai gia đình không gặp nhau, không chuyện trò, không trao đổi, là như thiếu vắng một cái gì đấy. Từ ngày có chủ trương gắn kết giữa hộ công nhân người Kinh với hộ đồng bào dân tộc thiểu số địa phương, tình làng nghĩa xóm, tình láng giềng trở nên gần gũi, thân mật. Đến nay đội của em đã có tới 95% đồng bào là người dân tộc thiểu số tại chỗ có tay nghề giỏi.
Chiêu ngụm nước chè xanh đặc sánh, chị cả quyết:
- Đã coi nhau như ruột thịt, thì chuyện làm ăn chẳng có gì là khó khăn cả. Chẳng còn phải “ý tứ” gì nữa, việc gì mình chưa biết, hoặc bà con chưa rõ đều trao đổi với nhau để hiểu và giúp nhau. Gắn kết như vậy thật sự là sớm hôm, tắt lửa tối đèn có nhau…
Tâm tư của vị tướng
Thiếu tướng Nguyễn Xuân Sang, Anh hùng Lao động, Anh hùng LLVT, Tư lệnh Binh đoàn 15, người đã gắn bó phần lớn cuộc đời binh nghiệp với Tây Nguyên, với cây cao su. Lẽ ra giờ anh đã được nghỉ, nhưng với anh lúc nào cũng đau đáu nỗi niềm là làm thế nào để có thêm diện tích để đưa được nhiều đồng bào các dân tộc vào làm việc tại các cơ sở của Binh đoàn. Khi nghe chúng tôi nói về việc gắn kết hộ, như khơi đúng mạch, anh say sưa:
- Chủ trương việc gắn kết của Binh đoàn đã được đề ra ngay từ ngày đầu thành lập. Tuy nhiên, lúc đầu chúng tôi mới chỉ đặt vấn đề Binh đoàn gắn với tỉnh, công ty gắn với huyện, xã, đội sản xuất gắn với buôn, thôn. Nhưng từ thực tiễn cuộc sống, từ đòi hỏi khách quan, từ lao động sản xuất đã sản sinh ra việc “gắn kết hộ”. Đến bây giờ có thể coi đó là mô hình, là bước cụ thể hóa của công tác dân vận. Thực tiễn đã sản sinh ra các mô hình. Đảng ủy-Bộ Tư lệnh Binh đoàn đang tổng hợp để đúc rút thành vấn đề lý luận để chỉ đạo tiếp ở các cơ sở sản xuất mới hình thành, ở các địa phương khác và ở cả nước bạn nơi mà Binh đoàn đang được giao nhiệm vụ giúp bạn phát triển kinh tế.
- Nhưng thưa anh, mỗi địa bàn, mỗi dân tộc đều có sắc thái riêng, phong tục tập quán riêng, liệu…
Không để chúng tôi nói hết lời, anh cười và nói ngay:
- Tôi tin rồi mọi việc sẽ đâu vào đấy, cứ có quyết tâm, không ngại khó, xông vào việc, rồi từ thực tế công việc sẽ sản sinh ra những cách làm phù hợp, rồi sẽ có những mô hình mới tiên tiến.
Chiều Tây Nguyên chớm mùa khô, trời se se lạnh. Đại ngàn cao su ở Tây Nguyên đang vào chính vụ khai thác mủ. Nhìn vào khuôn mặt người anh hùng, nghe những quyết tâm của vị Tư lệnh Binh đoàn làm kinh tế, trước mắt chúng tôi thấy mở ra chân trời của ngày mới…
Phúc Nguyên, Huy Thiêm và Đặng Trung Hội
Những bài liên quan:
Giữ “phên giậu” Tây Nguyên (bài 1)
Ngày càng quan tâm chất lượng cuộc sống (Bài 2)