QĐND - Sau chiến thắng Việt Bắc (cuối năm 1947), Bộ Thống soái rất thận trọng khi nhận định về mốc chuyển giai đoạn chiến lược. Mãi đến trung tuần tháng 8-1948, khi so sánh lực lượng giữa ta và địch đang trong quá trình chuyển biến có lợi cho ta, khi cuộc “phản công chiến lược mềm” vào địch hậu đã tạo ra một cục diện mới trên chiến trường-thế trận chiến tranh nhân dân đã từng bước hình thành và ngày càng vững chắc, trong hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ 5 (họp tháng 8-1948), Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp vẫn đặt vấn đề: Chiến tranh đã sang giai đoạn mới hay chưa? Và để thúc đẩy cuộc kháng chiến tiến nhanh sang giai đoạn hai, ông đề ra cho bộ đội chủ lực nhiệm vụ giành quyền chủ động về chiến thuật, tiến dần lên chủ động chiến dịch, đi tới chủ động chiến lược từng bộ phận; trong tác chiến phải từng bước chuyển từ đánh tiêu hao sang đánh tiêu diệt.
 |
|
Chủ tịch Hồ Chí Minh chụp ảnh với các cán bộ chủ chốt dự Hội nghị Quân sự trong Chiến dịch Biên giới (6-1950). Ảnh tư liệu
|
Thực tế chiến trường cho thấy những cố gắng của ta trong cả năm 1948 đã bước đầu tạo nên thế mới và lực mới. Trong năm đó, địch không mở được cuộc hành binh nào mang mục đích tiến công với quy mô như mùa khô năm 1947. Hai phần ba các cuộc hành binh hơn 1000 quân của địch chỉ diễn ra trong vùng chúng tạm kiểm soát. Trong khi đó, cùng với thắng lợi trong việc thực hiện chủ trương chiến lược tiến sâu vào vùng sau lưng địch, ta đã chủ động mở 5 chiến dịch nhỏ trên các chiến trường rừng núi Bắc Bộ. Về tình hình khái quát năm 1948, báo cáo của Quân ủy Trung ương tại hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ 6 (trung tuần tháng 1-1949) nhận định: Biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta là thành công lớn nhất của ta trong năm 1948; không “bình định” được vùng tạm kiểm soát của chúng là thất bại lớn nhất của địch trong thời gian đó. Và từ thực tế chiến trường trong năm 1948, Quân ủy kết luận: Cuộc kháng chiến đã chuyển sang giai đoạn mới từ sau chiến thắng Việt Bắc (tức từ đầu năm 1948). Đồng thời, với sự nhạy bén trong tư duy chiến lược, Quân ủy phân tích bối cảnh xuất hiện và diễn biến trong năm đầu của giai đoạn hai: Giai đoạn hai của cuộc kháng chiến mới bắt đầu được một năm cũng là lúc tình hình thế giới có những biến chuyển cơ bản, nổi lên là bước tiến quân nhanh chóng của Giải phóng quân Trung Quốc trên đường Nam hạ. Từ trung tuần tháng 7, Giải phóng quân Trung Quốc mở những chiến dịch tiến công mới, đến tháng 8 đã tiến gần sát biên giới Quảng Đông, Quảng Tây. Trong một bài viết trên Tạp chí Sinh hoạt nội bộ (số ngày 16-8-1949), đồng chí Võ Nguyên Giáp nhận định: Ngày Quân giải phóng tiến sát đến biên giới Trung-Việt, phá thế bao vây của quân địch đối với ta ở biên giới phía bắc, không còn xa nữa. Cái nguy cơ tàn quân Quốc dân đảng tràn qua biên giới cũng đã đến trước mắt.
Từ thực tế năm đầu giai đoạn hai của cuộc kháng chiến và tình hình thế giới đầu năm 1949, Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ 6 dự kiến: Đế quốc Pháp có thể câu kết với bọn phản động quốc tế hòng được sự giúp đỡ thiết thực khiến cho ta gặp những khó khăn mới, nhưng nếu chúng ta ráng sức chuẩn bị để tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi thì tuy giai đoạn hai của cuộc kháng chiến có thể gay go nhưng rất có thể được rút ngắn lại. Trên cơ sở nhận định và dự kiến đó, hội nghị khẳng định: Ngay từ bây giờ nhiệm vụ chuẩn bị tổng phản công cần sớm được đặt ra.
Khẩu hiệu hành động của toàn Đảng toàn dân, toàn quân lúc này là: Tất cả để chiến thắng – Tất cả để chuẩn bị Tổng phản công. Phong trào thi đua (phát động từ năm 1948) được đẩy mạnh trên các mặt phát triển kinh tế, tài chính, giáo dục, văn hóa kháng chiến. Sắc lệnh về giảm tô (14-7-1949) có tác dụng cổ vũ rất lớn khí thế bà con nông dân lao động, lực lượng đông đảo nhất trong sự nghiệp kháng chiến của toàn dân. Riêng về mặt quân sự, trước yêu cầu chung là hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị - chuyển mạnh sang tổng phản công và yêu cầu cụ thể của quy mô tác chiến tập trung ngày càng lớn, các đại đội độc lập (năm 1948 được đưa về các địa phương để hỗ trợ phong trào du kích) lần lượt được tập trung về để xây dựng thành các trung đoàn chủ lực mạnh. Tiếp theo hai đợt vận động Luyện quân lập công (trong năm 1948), Bộ Thống soái tiếp tục mở cuộc vận động mới Rèn cán-chỉnh quân (rèn luyện cán bộ - chấn chỉnh quân đội) nhằm nâng trình độ chỉ huy của cán bộ, kiện toàn tổ chức và nâng trình độ tác chiến của bộ đội chủ lực lên một bước theo yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới. Kết quả cuộc vận động Rèn cán-chỉnh quân được thử nghiệm trực tiếp trong 10 chiến dịch (quy mô từ 1 đến 3 trung đoàn) mở ra trên các chiến trường ba miền Bắc - Trung - Nam. Từ tháng 3-1949, các chiến dịch nhỏ và vừa được diễn ra trong điều kiện ta đã từng bước giành và giữ quyền chủ động chiến dịch trên chiến trường chính Bắc Bộ. So với năm 1948, đặc điểm nổi bật của các chiến dịch năm 1949 là tính du kích giảm dần, tính chính quy, tập trung thống nhất tăng dần. Đó là kết quả việc chỉ đạo kết hợp chặt chẽ xây dựng, huấn luyện với tác chiến, lấy kinh nghiệm thực tế chiến đấu trên chiến trường để bổ sung và nâng cao nội dung huấn luyện trên thao trường.
Đi đôi với chỉ đạo xây dựng và rèn luyện bộ đội chủ lực, Bộ Thống soái đặc biệt quan tâm chỉ đạo xây dựng LLVT địa phương, nhằm củng cố phong trào du kích đã được mở rộng đồng thời đáp ứng yêu cầu phối hợp giữa hai hình thức chiến tranh du kích và chính quy, yêu cầu phối hợp giữa các chiến dịch trên các chiến trường phía trước với phong trào đấu tranh trong vùng sau lưng địch.
Hội nghị dân quân toàn quốc lần thứ 3 (tháng 3-1949) không những xác định rõ thêm phương hướng tổ chức và chỉ đạo LLVT địa phương, xác định mối quan hệ giữa LLVT địa phương với chính quyền cơ sở, mà còn là một dịp uốn nắn những nhận thức không đúng về lãnh đạo chiến tranh nhân dân nói chung và lãnh đạo chỉ đạo LLVT địa phương trong thời kỳ chuẩn bị Tổng phản công nói riêng.
Với sắc lệnh về tổ chức bộ đội địa phương (ngày 7-4-1949), lần đầu tiên LLVT cách mạng Việt Nam chính thức bao gồm ba thứ quân ở sáu cấp, với vị trí chiến lược, chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ khăng khít cả trong xây dựng và chiến đấu.
Trước khả năng Giải phóng quân Trung Quốc tiến nhanh xuống biên giới Việt – Trung, ngoài việc phái lực lượng sang (theo yêu cầu của bạn) mở rộng vùng giải phóng ở Điền Quế – Việt Quế (chiến dịch Thập vạn đại sơn), Bộ Thống soái chủ trương mở mấy chiến dịch trên vùng rừng núi Bắc Bộ, từ Tây Bắc (Lào Cai-Hà Giang) sang Đông Bắc (Cao-Bắc-Lạng và Quảng Ninh), nhằm tạo thế chiến lược thuận lợi cho việc phối hợp với Giải phóng quân Trung Quốc. Sau khi nắm được kế hoạch chiến lược mang tên Rơ-ve, nhất là sau khi quân Pháp rút khỏi Bắc Kạn, quân ta được lệnh đẩy mạnh hoạt động trên cả hai hướng Tây Bắc và Đông Bắc, với ý định buộc địch rút khỏi Cao Bằng và Lào Cai.
Cuối năm 1949, trước tình hình Giải phóng quân Trung Quốc đã giải phóng Quảng Đông và Quảng Tây, ngày 10-11 Tổng Quân ủy ra chỉ thị về biên giới. Dự kiến quân Quốc dân đảng bị dồn từ trên xuống, có thể câu kết với Pháp để tràn sang Việt Bắc, uy hiếp căn cứ địa, Quân ủy lệnh cho các tỉnh dọc biên giới từ Tây Bắc sang Đông Bắc triển khai gấp một số biện pháp cần kíp: Ráo riết củng cố biên giới; chuẩn bị kế hoạch phối hợp với Giải phóng quân Trung Quốc; đối phó với tàn quân Tưởng Giới Thạch và thổ phỉ, chuẩn bị chiến trường… Quân ủy chỉ rõ: Tình hình biên giới đang biến chuyển gấp rút. Cùng với tinh thần tranh thủ thời gian thực hiện bằng được các nhiệm vụ trên đây nhằm chờ đón thời cơ thuận lợi, các tỉnh biên giới cần phải có tinh thần tự động để đối phó kịp thời với mọi tình huống khó khăn và bất ngờ có thể xảy ra.
Khi Giải phóng quân Trung Quốc tiến xuống và dừng ở bên kia biên giới Việt - Trung, Pháp “hót” được chừng 3 vạn tàn quân của Tưởng Giới Thạch để bổ sung vào quân số đang thiếu hụt nghiêm trọng. Trong khi đó, với quyết tâm khai thông biên giới, Bộ thống soái chủ trương tiếp tục mở chiến dịch trên hướng Tây Bắc (Lào Cai – Sơn La – Lai Châu) (chiến dịch Lê Hồng Phong 1) đồng thời chuẩn bị chiến trường Đông Bắc.
Chiến dịch Lê Hồng Phong 1 bắt đầu từ 7-2-1950. Sau hai trận đầu (Phố Lu và Nghĩa Đô), nhận thấy lực lượng ta bị tiêu hao, tiếp tế lương thực và vũ khí khó khăn, chủ trương giải phóng Lào Cai chưa có điều kiện thực hiện, Bộ Tổng tư lệnh quyết định chuyển lực lượng sang hoạt động ở tả ngạn sông Hồng. Hơn một tháng sau, dù dự kiến địch có thể tăng cường lực lượng để củng cố Lào Cai, Bộ Thống soái vẫn nhận định: Nhìn chung trên toàn chiến trường Bắc Bộ, hướng yếu nhất của địch vẫn là Tây Bắc. Do đó, Bộ lệnh cho Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Bắc, Đại đoàn 308 và Trung đoàn 209 chuẩn bị tiếp tục mở chiến dịch trên hướng Tây Bắc nhằm mục đích tiêu diệt một bộ phận lực lượng địch, giải phóng Lào Cai, mở thông đường giao lưu quốc tế. Dự kiến chiến dịch bắt đầu vào trung tuần tháng 6-1950.
Công tác chuẩn bị chiến dịch đang triển khai thì, sau chuyến công cán Trung Quốc và Liên Xô, Cụ Hồ về đến căn cứ địa Việt Bắc. Sau khi nghe Cụ thông báo về kết quả hội đàm với Mao Trạch Đông và Xta-lin, nhất là kết quả về viện trợ quân sự của bạn và đường vào của hàng viện trợ, Thường vụ Trung ương nghiên cứu đề án giải phóng biên giới với một cách nhìn mới. Phân tích và cân nhắc đặc điểm chiến trường biên giới và tình hình cầu đường trên hai vùng thượng du Đông Bắc và Tây Bắc, Bộ Thống soái quyết định chuyển hướng mở chiến dịch giải phóng biên giới sang phía Đông Bắc, cụ thể là trên trục đường chiến lược số 4. Tây Bắc trở thành hướng phối hợp. Hai cơ quan tham mưu và hậu cần Tổng hành dinh tập trung vào việc chuẩn bị chiến trường Cao – Lạng, mà một trong những công việc đòi hỏi nhiều thời gian và công sức là sửa chữa và mở rộng hàng trăm ki-lô-mét đường nối liền Thái Nguyên - Cao Bằng, Thái Nguyên - Tuyên Quang và Tuyên Quang-Phú Thọ. Trong khi đó, các cơ quan Quân lực, Quân huấn và Quân giới phối hợp tổ chức cho 5 trung đoàn chủ lực của Bộ sang bên kia biên giới để nhận trang bị mới và học tập chiến thuật tiến công địch trong công sự vững chắc bằng bộc phá.
Lúc này Trung đoàn 174 vẫn “bám” đường số 4. Chưa đơn vị nào trong các lực lượng chủ lực được biết ý định của Bộ Thống soái sắp mở chiến dịch lớn trên quốc lộ 4. Điều đó giải thích vì sao ngày 25 tháng 5 năm 1950, Trung đoàn 174 tiến công cứ điểm Đông Khê. Mặc dù biết rằng trận đánh của Trung đoàn 174 có thể “đánh động” quân địch, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp vẫn gửi điện khen ngợi trung đoàn về trận tiêu diệt chiến lớn nhất từ đầu năm 1950 đến giờ. Sau đó ông cho gọi Trung đoàn trưởng Đặng Văn Việt về báo cáo cụ thể diễn biến của trận đánh và tình hình mới nhất của địch trên đường số 4. Đánh giá Đông Khê là một “trận đánh tốt”, ông nhắc tham mưu chú ý những kinh nghiệm và ưu khuyết điểm của trận công kiên này. Không một lời phê bình Trung đoàn 174 về “trận đánh ngoài dự kiến của Bộ”, trái lại chỉ là những lời biểu dương tinh thần anh dũng chủ động tiến công của bộ đội.
Trần Trọng Trung