Màu xanh trên “cao nguyên đỏ"

Ấn tượng đầu tiên khi chúng tôi đặt chân vào Bộ tư lệnh Binh đoàn 15 là cảm giác dịu mát bởi không gian xanh. Những dãy nhà chính quy nép mình dưới những vòm cây xanh; xung quanh được tô điểm bởi những khóm hoa, thảm cỏ. Ở vùng đất nắng gió Tây Nguyên mà có được một không gian như vậy, mới biết được tinh thần vượt khó cũng như khả năng sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ, NLĐ trong binh đoàn qua các thế hệ tạo dựng nên.    

Có lẽ, sự quan tâm sâu sát đến môi trường văn hóa của đơn vị cũng như khát vọng mang màu xanh lên "cao nguyên đỏ" của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ qua các thời kỳ là lời lý giải thỏa đáng nhất cho câu hỏi tại sao chỉ đặt chân đến 4 tỉnh miền Trung và Tây Nguyên với thời gian không lâu, nhưng Binh đoàn 15 đã tái tạo lại màu xanh bạt ngàn trên những vùng "đất chết". Chính màu xanh ấy góp phần giúp đồng bào thay đổi số phận, thay đổi cuộc đời…

Lớp học Tin học ở Trường THCS Võ Nguyên Giáp (Sa Thầy, Kon Tum).

Thiếu tướng Đặng Anh Dũng tâm sự: Từ những ngày đầu thành lập, binh đoàn đã chủ trương “Phát triển, mở rộng sản xuất đến đâu, thu hút lao động và xây dựng khu dân cư đến đó”, thực hiện chính sách ưu tiên tuyển lao động tại chỗ, lao động là người dân tộc thiểu số (DTTS); kết hợp chặt chẽ giữa thu hút lao động và chăm lo về mọi mặt, hỗ trợ phát triển kinh tế gia đình, tạo sự yên tâm, gắn bó, bám trụ địa bàn, xây dựng gia đình, xây dựng quê hương trên những vùng đất mới. Do vậy, từ chỗ chỉ có gần 5.000 lao động với 3 cụm và 21 điểm dân cư cùng 1.718 hộ vào thời điểm năm 1990, đến nay, binh đoàn có 17.000 lao động (trong đó hơn 7.000 lao động là người DTTS), xây dựng 10 cụm, 266 điểm dân cư dọc biên giới với hàng vạn nhân khẩu. Các thôn, làng mới ra đời không chỉ tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc thay đổi cuộc sống mà còn tạo thành các khu vực vành đai biên giới trong thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững chắc.

Theo Đại tá Nguyễn Đức Thành, Bí thư Đảng ủy, Phó tư lệnh Binh đoàn 15, bằng nhiều biện pháp, binh đoàn khuyến khích và hỗ trợ cán bộ, công nhân, NLĐ và đồng bào các DTTS phát triển kinh tế hộ gia đình đạt hiệu quả. Khi quy hoạch các vườn cây, những diện tích đất giáp suối, gần nguồn nước đều ưu tiên để người dân trồng hoa màu, cây lương thực. Các đơn vị của binh đoàn hỗ trợ nhân dân hàng vạn ngày công khai hoang, phục hóa ruộng nước, hỗ trợ vốn, giống cây trồng, vật nuôi và hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc. Công nhân vừa thực hiện nhiệm vụ của đơn vị, vừa tăng gia sản xuất theo mô hình “vườn, ao, chuồng” tạo thu nhập ổn định, từng bước thoát nghèo, vươn lên làm giàu, nhiều hộ gia đình có thu nhập hàng trăm triệu đồng/năm. Bên cạnh hỗ trợ về giống, vốn và kỹ thuật, binh đoàn giúp bà con các DTTS tiêu thụ sản phẩm cao su, cà phê, từng bước hình thành và phát triển tư duy sản xuất hàng hóa, hội nhập nền kinh tế thị trường.

Binh đoàn chủ trương đổi mới, trong đó “tái cơ cấu doanh nghiệp theo hướng tinh gọn, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và đa dạng hóa sản phẩm”. Binh đoàn luôn đặt NLĐ làm trung tâm, bảo đảm việc làm và thu nhập ổn định cuộc sống cho hàng vạn nhân khẩu ở vùng biên giới. Trên những diện tích tái canh cao su, các đơn vị chủ động cho công nhân và bà con DTTS trồng hơn 4.000ha cây lương thực ngắn ngày, như: Lúa, đậu, lạc... tạo ra hàng nghìn tấn lương thực giúp bà con xóa đói, giảm nghèo. Các ngành nghề chăn nuôi, trồng trọt mới của binh đoàn bước đầu cho hiệu quả khá về lợi nhuận, tạo thêm việc làm và thu nhập cho NLĐ.

Lên Tây Nguyên, chúng tôi rất ngạc nhiên khi nghe bà con kể chuyện Binh đoàn 15 đã đề ra công thức “suối-dân-bộ đội”. Nghĩa là, từ mép suối trở lên từ 100 đến 150m đất tốt, lại gần nước, thì dành cho dân sản xuất. Còn ở bên trong, khu đất cằn cỗi, khó khăn hơn, bộ đội sẽ nhận làm. Công thức ấy, thể hiện tình cảm, trách nhiệm của Bộ đội Cụ Hồ đối với nhân dân; minh chứng sinh động thể hiện vai trò “đội quân công tác”. Thành công của Binh đoàn 15 là biến những vùng rừng không dân, xác xơ, nghèo đói, những vùng đất hoang hóa, đầy vết tích chiến tranh thành những “phòng tuyến xanh” gồm ngút ngàn những “rừng” cây công nghiệp, những khu dân cư, buôn làng trù phú. 

Gieo mầm cho mai sau

Gắn bó với đồng bào và công nhân là người DTTS trên địa bàn Tây Nguyên, trong những năm qua, Đảng ủy-Bộ tư lệnh Binh đoàn luôn thấu hiểu sâu sắc sự vất vả của những gia đình có con thơ. Công việc cạo mủ cao su bắt đầu từ 2 giờ sáng. Vậy phải làm gì với những đứa trẻ để bố mẹ các cháu yên tâm làm việc? Trường mầm non và nhà trẻ được Binh đoàn 15 xây dựng trên các địa bàn đóng quân không chỉ tìm ra “đáp số” cho câu hỏi ấy, mà còn nhiều hơn thế.

Tiếp tục mạch chuyện về việc dạy trẻ mầm non, Đại tá Nguyễn Hồng Giang, Phó chủ nhiệm Chính trị Binh đoàn tâm sự với chúng tôi: “Điều đáng nói là ngoài việc chăm sóc, dạy dỗ con em của công nhân, NLĐ của binh đoàn thì 100% con em đồng bào DTTS địa phương cũng được theo học tại các trường mầm non. Đến nay, rất khó để phân biệt đâu là con em của đồng bào Kinh, đâu là con em đồng bào DTTS, bởi các cháu đều được ăn mặc sạch đẹp và biết nói tiếng phổ thông. Chính vì biết tiếng phổ thông ngay từ bậc học mầm non nên khi vào tiểu học, các cháu là con em đồng bào DTTS không phải học tiếng phổ thông và theo kịp chương trình học tập”.

Đến trường mầm non của Công ty 78 ở xã biên giới Mo Rai, huyện Sa Thầy (Kon Tum), chúng tôi ngỡ ngàng bởi là địa bàn đặc biệt khó khăn, nhưng trường lớp khang trang; cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học không thua kém so với các trường mầm non dưới đồng bằng. Trường được thành lập từ năm 2009 với 11 điểm trường, 55 cán bộ, giáo viên, 422 cháu ở độ tuổi nhà trẻ và mẫu giáo.

Để tạo điều kiện cho gia đình công nhân, NLĐ có con nhỏ lên lô cạo mủ cao su, cả 11 điểm trường đều tổ chức đón các cháu từ 1 giờ sáng. Hiện có khoảng 160 cháu đang đến lớp ở khung thời gian này. Mỗi điểm trường cắt cử luân phiên một đêm hai cô giáo trực để đón các cháu. Lúc này, các cô đảm đương thiên chức của người mẹ chăm sóc con thơ. Cháu nhỏ thì được các cô ru trên võng, có cháu quấy khóc đòi mẹ thì các cô lại ân cần bế ẵm cả đêm. 

Chúng tôi gặp vợ chồng trẻ A Kảo và Y Ven, người dân tộc Gia Rai, công nhân Đội 5 (Công ty 78), có hai con nhỏ đang ở độ tuổi đi nhà trẻ. Chị Y Ven tâm sự: "Ở đây các cô giáo thương yêu bọn trẻ như con nên chúng thích đến lớp lắm. Bây giờ cho ở nhà chúng cũng không chịu. Thấy bọn trẻ lớn lên khỏe mạnh, hòa đồng với các bạn người dân tộc khác, vợ chồng tôi rất hạnh phúc".

Mới đây, Công ty 78 vừa khánh thành, bàn giao Trường THCS Võ Nguyên Giáp, đem lại niềm vui lớn lao không chỉ với thầy, cô giáo, các em học sinh, mà cả các bậc phụ huynh trên địa bàn huyện Sa Thầy.

Hành quân lên huyện biên giới Đức Cơ (Gia Lai), chúng được nghe nhiều bà con khen ngợi Trường Mầm non 18-4 của Công ty 72. Sở dĩ có rất nhiều người biết đến bởi trường không chỉ đạt chuẩn quốc gia mà còn ở sự trải rộng của một trường mầm non với 18 điểm trường, 61 nhóm lớp nằm trên 4 xã và 1 thị trấn của huyện. Trao đổi với Đại úy QNCN Phạm Thị Xuân, Phó hiệu trưởng Trường mầm non 18-4, chúng tôi được biết, hiện nhà trường có 1.233 cháu ở độ tuổi nhà trẻ và mẫu giáo đến lớp, trong đó, có 27,3% cháu là người DTTS. Tất cả các cháu đều ở bán trú. Riêng các cháu người DTTS không phải đóng bất cứ loại phí nào, ngoài ra Công ty 72 còn hỗ trợ mỗi cháu 8.000 đồng tiền ăn/ngày.

Thấy được sự khó khăn, vất vả của công nhân, NLĐ trong hành trình tìm chữ cho con em, Công ty 72 đầu tư mỗi tháng 11 triệu đồng thuê xe đưa đón các cháu đi học hằng ngày. Việc làm đó mang lại niềm vui cho các gia đình công nhân, NLĐ của công ty và đúng như lời đồng chí Tư lệnh Binh đoàn 15 chia sẻ: "Những gì tốt đẹp nhất, binh đoàn đều dành cho các cháu”.

Bài và ảnh: TIẾN DŨNG - HOÀNG HÀ - QUANG HỒI - ANH SƠN

(còn nữa)