QĐND - Nhà nước tốn hàng chục tỷ đồng, vậy mà hàng nghìn héc-ta rừng giao khoán theo Quyết định số 304/2005/QĐ-TTg vẫn bị tàn phá. Nếu không kịp thời tìm giải pháp hóa giải "bài toán" giữ rừng, thì không chỉ rừng đã giao khoán, mà cả rừng chưa giao khoán trên địa bàn Tây Nguyên còn bị "bức tử".
Thực tế, không phải ở đâu rừng giao cho cộng đồng quản lý, bảo vệ cũng bị xâm hại. Đã có những cộng đồng bảo vệ rừng khá tốt, rừng đã mang lại nguồn thu cho người nhận khoán.
 |
|
Đất rừng bị cộng đồng phá, nay doanh nghiệp liên kết trồng cao su ở xã Ea Sol, huyện Ea H’leo.
|
Điển hình như cộng đồng buôn Ta Ly, xã Ea Sol, huyện Ea H’leo (Đắc Lắc), có 144 hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, nhận bảo vệ 1.127,5ha rừng. Và nhờ diện tích rừng buôn Ta Ly nhận khoán chủ yếu là rừng nguyên sinh, nên chỉ sau 4 năm chăm sóc, bảo vệ, cộng đồng buôn này đã khai thác được 380m3 gỗ, thu được 616 triệu đồng. Nguồn thu này buôn Ta Ly sử dụng cho hộ nghèo vay đầu tư phát triển sản xuất xóa nghèo, mua bò giống phát triển chăn nuôi và chi phí cho công tác bảo vệ rừng. Buôn Ta Ly cũng là cộng đồng bảo vệ rừng có lẽ tốt nhất tỉnh Đắc Lắc.
Thống kê của UBND xã Ea Sol, đến tháng 7-2011, diện tích rừng buôn Ta Ly bảo vệ bị phá 5ha. Trong khi cũng ở xã Ea Sol, buôn Điết có 78 hộ nhận bảo vệ 524,7ha rừng nhưng đã bị phá hơn 140ha để làm nương rẫy.
Nguyên nhân chính, theo lý giải của ông Y Rít, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, kiêm Chi cục trưởng Kiểm lâm tỉnh Đắc Lắc là: “Rừng giao cho buôn Điết, cũng như nhiều cộng đồng khác trong tỉnh Đắc Lắc nhận khoán bảo vệ chủ yếu là rừng nghèo kiệt, trước đây các công ty lâm nghiệp đã khai thác hết gỗ, sau đó chuyển về cho địa phương quản lý, muốn khai thác được lâm sản phải chăm sóc và chờ đợi 20-30 năm, thậm chí 40 năm sau. Trong khi đó, các hộ nhận rừng đều là hộ nghèo, bà con cần phải giải quyết nhu cầu thiết yếu đời sống hằng ngày. Vì thế, khi nhận rừng nghèo kiệt, bà con không thiết tha. Thậm chí, chính chủ rừng phá rừng làm rẫy để có nguồn thu trước mắt. Cũng vì lý do trên, mà đến thời điểm này toàn tỉnh Đắc Lắc chỉ giao khoán được 32,14% diện tích so với kế hoạch!”.
 |
|
Công ty Tân Nam Bảo tập kết cây giống cao su để trồng trên đất cộng đồng buôn Điết, xã Ea Sol, huyện Ea H’leo (đất do phá rừng mà có).
|
Ông Y Rít còn khẳng định: Nếu việc giao rừng theo Quyết định số 304/2005/QĐ-TTg cứ làm như lâu nay thì không hiệu quả, vì dân hưởng lợi từ rừng ít quá, nhiều nơi không có nguồn thu nào cả, dân không sống được bằng nghề rừng, nên chẳng ai thiết tha với rừng. Tôi cho rằng, tới đây chính sách hưởng lợi cần điều chỉnh, ngoài chính sách ưu đãi hộ nghèo nhận khoán rừng như đang thực hiện, nên chi trả công bảo vệ rừng hằng năm như đối với giao khoán bảo vệ rừng đặc dụng, rừng vườn quốc gia với mức đang thực hiện là 100 nghìn đồng/ha/năm, khi đó người dân sẽ gắn trách nhiệm với rừng hơn”.
Cùng quan điểm chi trả công chăm sóc rừng hằng năm cho các hộ nhận khoán, ông Ksơr Grư, Phó chủ tịch phụ trách lâm nghiệp UBND xã Ea Sol, huyện Ea H’leo còn cho rằng: Nên giao khoán rừng tới từng hộ dân, với diện tích vừa phải để gắn trách nhiệm của hộ đó với rừng. Chứ giao rừng cho cộng đồng, nghe thì thật to tát, lực lượng có vẻ hùng hậu, nhưng lại xảy ra tình trạng “cha chung không ai khóc!” và đến khi rừng mất chẳng biết quy trách nhiệm cho ai.
Việc xử lý hàng nghìn héc-ta rừng giao cho cộng đồng ở tỉnh Đắc Lắc đã bị tàn phá thế nào cũng là vấn đề đang đặt ra. Ông Lê Văn Hậu, quyền Chủ tịch UBND xã Ea Mdroh, huyện Cư M’gar cho rằng, nên tạo điều kiện cho bà con sản xuất nông nghiệp một vài năm, sau đó Nhà nước hỗ trợ cây giống để người dân trồng lại rừng. Biện pháp này xem ra có lợi cho dân. Nhưng chúng tôi cho rằng nếu làm như thế, vô hình trung kích thích những chủ nhận rừng khác cũng "bức tử" rừng lấy đất sản xuất nông nghiệp một vài năm, rồi lại xin cấp giống trồng rừng. Hơn nữa, kinh phí trồng và chăm sóc cho được 1ha rừng đâu phải là nhỏ. Thực tế đã từng có những dự án trồng rừng quy mô lớn, mà hiệu quả lại ‘bé tẻo teo”, có khi chỉ là trồng rừng trên giấy(!).
Qua điều tra thực tế tại buôn Điết - cộng đồng nhận khoán bảo vệ rừng và có diện tích rừng bị phá nhiều nhất xã Ea Sol, huyện Ea H’leo - chúng tôi được biết: Đầu năm 2011, để giải quyết hậu quả hơn 140ha rừng bị phá, hiện bà con đang trồng lúa, bắp và sắn, cộng đồng buôn Điết đã tự ý đứng ra liên kết với Công ty Tân Nam Bảo (có trụ sở tại thành phố Buôn Ma Thuột) để trồng 180ha cao su, theo phương thức: Doanh nghiệp đầu tư toàn bộ từ A đến Z, khi thu hoạch cộng đồng buôn (ở đây được xác định là bên góp đất trồng cao su) được hưởng 10%, doanh nghiệp hưởng 90%.
Thoạt nghe, thì đây có thể là cách giải quyết hậu quả phá rừng khá hay. Hay ở chỗ, nó phủ được đất trống, đồi trọc, và tạo hiệu quả kinh tế cao. Nhưng xin được nhắc lại, trong quyết định giao rừng cho cộng đồng đã nêu rõ quyền lợi của cộng đồng: “Được liên kết với các thành phần kinh tế để huy động vốn đầu tư cho việc xây dựng và phát triển rừng”. Không hề có khoản, mục nào nói được trồng cây công nghiệp như cao su, cà phê (!).
Nếu làm như cách buôn Điết đang triển khai, chúng tôi e rằng, trước hết gây ra tác động tiêu cực, một số cộng đồng khác cũng có thể phá trắng hàng trăm héc-ta rừng nhận khoán, sau đó đứng ra liên kết với doanh nghiệp trồng cao su hoặc trồng cây công nghiệp khác để hưởng lợi. Thậm chí, không loại trừ khả năng có doanh nghiệp đứng đằng sau những cộng đồng phá rừng nhận khoán để tìm cơ hội đầu tư. Như vậy, vô tình những quyết định giao hàng nghìn héc-ta rừng cho cộng đồng quản lý, bảo vệ lại bao trùm cả những dự án phát triển cây công nghiệp, mà doanh nghiệp không tốn công sức, tiền bạc để lập dự án cũng như thuê đất mà vẫn có được những dự án béo bở (!). Chúng tôi cho rằng, cách làm ở buôn Điết, xã Ea Sol, huyện Ea H’leo không những tiếp tay cho phá rừng mà còn gây thất thoát tài nguyên và nguồn thu của Nhà nước.
Ngày 22-7-2011, trao đổi với chúng tôi xung quanh việc thực hiện Quyết định số 304/2005/QĐ-TTg, ông Đỗ Trọng Kim, Phó cục trưởng Cục Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết: “Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện nay Cục Kiểm lâm đang kiểm tra những điểm nóng về phá rừng ở Tây Nguyên, trong đó có rừng giao cho cộng đồng để đề xuất phương án xử lý và kiến nghị hướng giao rừng trong thời gian tới. Qua kiểm tra cho thấy, ở Tây Nguyên thực tế rừng bị mất nhiều hơn con số các tỉnh báo cáo. Trước đây rừng giao cho lâm trường, công ty lâm nghiệp, doanh nghiệp quản lý cũng bị mất. Nay giao cho cộng đồng bảo vệ tiếp tục bị tàn phá. Mà việc xử lý những hộ, cộng đồng để mất rừng cũng là cả vấn đề!”.
Ông Đỗ Trọng Kim khẳng định, công tác giữ rừng hiện nay đang gặp nhiều áp lực, có những vướng mắc về mặt chính sách cần tháo gỡ. Đối với rừng giao khoán cho nhóm hộ và cộng đồng, tới đây phải xây dựng chính sách hưởng lợi cho người giữ rừng cụ thể hơn. Ví dụ như việc sử dụng quỹ chi trả dịch vụ môi trường rừng, tiền thanh lý lâm sản khai thác trái phép mà cấp xã tịch thu, kinh phí thu các doanh nghiệp triển khai dự án thuê đất lâm nghiệp cần xem xét giao cho cấp xã, để xã thành lập “Quỹ bảo vệ phát triển rừng”. Với nguồn quỹ này, cộng với sự hỗ trợ kinh phí của Nhà nước, là có thể thực hiện chi trả cho hộ và cộng đồng quản lý bảo vệ rừng với mức 100 nghìn đồng/ha/năm, như đề xuất từ sở.
Được biết, hiện tại toàn vùng Tây Nguyên còn 700 nghìn héc-ta rừng đang giao cho cấp xã quản lý. Mà nói như Phó cục trưởng Cục Kiểm lâm: “Rừng giao cho xã quản lý cũng như là vô chủ!”. Vì vậy, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần sớm xây dựng và trình Chính phủ ban hành chính sách giao khoán quản lý, bảo vệ rừng một cách phù hợp, làm thế nào để người giữ rừng sống được, thậm chí làm giàu từ nghề rừng, thì mới hy vọng tới đây các tỉnh Tây Nguyên giao khoán và bảo vệ được 700 nghìn héc-ta rừng cấp xã đang quản lý. Khi đã có cơ chế, chính sách phù hợp, cộng với việc thực thi pháp luật nghiêm minh, chúng tôi cho rằng việc giải bài toán giữ rừng ở Tây Nguyên không khó.
Bài và ảnh: Kiều Bình Định
(Hết)