QĐND - Hai văn kiện rất quan trọng sẽ được Đại hội XI thảo luận thông qua là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) và Dự thảo báo cáo chính trị Đại hội XI. Hai văn kiện này đã được chuẩn bị ra sao, có những nội dung gì đã được tranh luận sâu sắc và chứa đựng những nhân tố mới nào? Để góp phần giúp bạn đọc trả lời những câu hỏi đó, phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã có cuộc phỏng vấn PGS, TSKH Nguyễn Văn Đặng, Ủy viên Thường trực Tổ Biên tập Cương lĩnh, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, nguyên Phó trưởng ban thường trực Ban Kinh tế Trung ương, người trực tiếp tham gia biên tập nội dung các văn kiện trên…

GS, TSKH Nguyễn Văn Đặng, Ủy viên Thường trực Tổ Biên tập Cương lĩnh, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương.

Đã từng tham gia soạn thảo văn kiện các kỳ Đại hội VII, VIII, IX, X, XI, PGS, TSKH Nguyễn Văn Đặng cho biết, ông chưa bao giờ trả lời một cuộc phỏng vấn nào cũng như không viết một bài tham luận nào trên báo chí trước khi Đại hội diễn ra. Bởi vì, ông vừa muốn dành “đất” cho người khác, vừa e ngại sự hiểu lầm rằng, người trực tiếp tham gia biên tập văn kiện lại tuyên truyền trên báo chí quan điểm cá nhân đã phát biểu nhưng chưa được chấp nhận trong Tổ biên tập. Tuy vậy, lần này, ông đã “phá lệ”, dành cho Báo Quân đội nhân dân cuộc trao đổi mà theo ông: “Tôi chỉ phản ánh trung thành những nội dung phát triển của các văn kiện”…

Luôn trân trọng việc góp ý xây dựng văn kiện

Phóng viên (PV): Thưa ông, quy trình xây dựng các văn kiện được thực hiện như thế nào?

PGS, TSKH Nguyễn Văn Đặng: Để chuẩn bị các văn kiện Đại hội XI, Tiểu ban soạn thảo bổ sung, phát triển Cương lĩnh 1991 và Báo cáo Chính trị cùng Tiểu ban Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đã được thành lập từ đầu năm 2008. Cùng với đó, các tổ biên tập được thành lập. Các cơ quan khoa học như Hội đồng Lý luận Trung ương, Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Khoa học xã hội và một số tổ chức, cấp ủy được giao thực hiện những chuyên đề có tính tổng kết lý luận và thực tiễn để phục vụ công tác biên tập... Giúp việc Tiểu ban bổ sung và phát triển Cương lĩnh, Tổ biên tập được thành lập gồm 30 người, chia làm 5 nhóm nghiên cứu về các “mảng”: Những vấn đề chung; kinh tế; văn hoá-xã hội; quốc phòng-an ninh, đối ngoại; Đảng và hệ thống chính trị. Bộ phận thường trực của Tiểu ban gồm 10 người. Trước khi bộ phận thường trực tổng hợp các nội dung thì 5 nhóm làm việc, chuẩn bị các nội dung theo mảng của mình. Mỗi nhóm đều mời rất nhiều cộng tác viên là các nhà khoa học, nhà quản lý, nên lực lượng soạn thảo văn kiện không chỉ dừng lại ở con số 30. Mỗi nhóm sau nhiều lần nghiên cứu, khảo sát thực tế, dự thảo nội dung của mình gửi Thường trực Tổ biên tập và Tổ biên tập, sau đó trình Tiểu ban họp để thảo luận. Tiểu ban trình Bộ Chính trị để Bộ Chính trị thảo luận và trình ra Trung ương. Dự thảo còn được gửi đến các đồng chí nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước xin ý kiến trước khi chỉnh sửa để đưa trình các Hội nghị trung ương. Sau hội nghị 12, dự thảo được đưa ra thảo luận ở đại hội đảng bộ các cấp và xin ý kiến đóng góp rộng rãi của đại biểu Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, đảng viên và nhân dân trước khi tiếp tục trình các hội nghị trung ương lần thứ 13, 14...

PV: Có rất nhiều ý kiến đóng góp trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân gửi về, Tổ biên tập và Bộ Chính trị làm thế nào để tiếp thu đầy đủ, không bỏ sót?

PGS, TSKH Nguyễn Văn Đặng: Có rất nhiều ý kiến đóng góp từ nhiều kênh khác khau. Đại hội Đảng các cấp có 67 đầu mối gửi lên, rồi ý kiến của cán bộ, đảng viên, đoàn thể, báo chí gửi qua Ban Tuyên giáo Trung ương, Mặt trận Tổ quốc là kênh tổng hợp ý kiến của các đoàn thể. Quốc hội cũng gửi sang ý kiến của Đại biểu Quốc hội, cử tri. Tất cả đều được Văn phòng Trung ương Đảng tổng hợp. Gần như toàn bộ lực lượng của Văn phòng Trung ương Đảng đã được huy động cho việc tổng hợp ý kiến này, sau đó làm thành đề cương trình lên trên. Nói chung, hầu hết các ý kiến đều cơ bản tán thành với các dự thảo nhưng cũng có một số ý kiến khác. Nếu theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thiểu số phải phục tùng đa số thì có thể không cần phải sửa chữa, bổ sung gì cả nhưng có nhiều ý kiến thiểu số lại gợi mở nhiều cái mới, rất đáng trân trọng, tiếp thu. Với bản dự thảo bổ sung và phát triển Cương lĩnh 1991 chỉ dài 15 trang mà chúng tôi tổng hợp ban đầu có tới gần 200 chỗ được các nơi gửi về góp ý chỉnh sửa.

Báo chí cũng là một kênh thông tin quan trọng được chúng tôi nghiên cứu, tổng hợp nhiều. Ví dụ như trên Báo điện tử Vietnamnet, chúng tôi đã tổng hợp có 69 bài, 375 trang góp ý với Đại hội XI. Chỉ tiếc là một số bài ở báo này, báo khác còn nặng về quán triệt, chưa tạo ra diễn đàn bàn luận sôi nổi. Chúng tôi nghiên cứu các ý kiến đóng góp rất cẩn thận. Với nhiệm vụ là ủy viên thường trực Tổ Biên tập, tôi đã không chỉ nghiên cứu báo cáo tổng hợp mà còn nghiên cứu tất cả ý kiến trong các bản gốc. Quan điểm của Bộ Chính trị, của Trung ương là rất trân trọng mọi góp ý, kể cả ý kiến trái chiều cũng phải bình tĩnh, lắng nghe, không vội quy kết. Khi tổng hợp ý kiến trình Bộ Chính trị, chúng tôi thường dùng hình thức: Những nội dung sửa chữa, bổ sung thì in đậm, nội dung nào lược bỏ thì gạch ngang và để nguyên, cái gì có ý kiến khác thì ghi chú thích ở dưới. Cách làm đó giúp cho các đồng chí lãnh đạo dễ thấy những ý kiến nào mới bổ sung, sửa chữa.

PV: Để các văn kiện cập nhật được hơi thở cuộc sống, việc khảo sát thực tiễn đã được tiến hành ra sao?

PGS, TSKH Nguyễn Văn Đặng: Quá trình chuẩn bị văn kiện, chúng tôi đã tới làm việc với hơn 30 tỉnh, thành phố, hàng chục bộ, ngành, tham dự hàng chục hội thảo. Khi về các địa phương, đồng chí Nguyễn Phú Trọng thường cho chúng tôi có điều kiện hỏi, nắm tình hình nhiều hơn. Chẳng hạn, vấn đề một bộ phận cán bộ, đảng viên tha hóa, biến chất là như thế nào mà năm nào, nghị quyết nào cũng nêu như thế, tôi phải hỏi cho rõ “một bộ phận” đó to lên hay nhỏ đi. Hay như từ “có lúc, có nơi” còn hạn chế cũng được chúng tôi hỏi rõ nơi nào, lúc nào…

Nâng tầm đổi mới

PV: Thưa ông, trong quá trình xây dựng dự thảo bổ sung và phát triển Cương lĩnh, có những vấn đề gì đã được bàn thảo, tranh luận nhiều nhất?

PGS, TSKH Nguyễn Văn Đặng: Trong quá trình xây dựng dự thảo và góp ý, có thể nói là trong 12 mục của Cương lĩnh thì mục nào cũng có những ý kiến khác nhau nhưng qua nhiều lần thảo luận, nổi lên có 4 vấn đề chính được bàn nhiều nhất:

Về tên gọi của Cương lĩnh là “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH” hay “Cương lĩnh xây dựng và bảo vệ đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH”. Có ý kiến cho rằng phải thêm chữ “bảo vệ”, lại có ý kiến cho rằng không cần thiết vì “xây dựng đã bao hàm bảo vệ”. Cũng có ý kiến cho rằng nếu thêm “bảo vệ” có thể dẫn đến cách hiểu sai, cho rằng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, đối ngoại “có vấn đề” nên phải bổ sung. Vì vậy, Trung ương biểu quyết vẫn giữ nguyên phương án cũ.

Về đặc trưng kinh tế của xã hội XHCN được xác định: “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”. Đại hội X không dùng “công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu” mà diễn đạt mềm hơn là “quan hệ sản xuất phù hợp”. Như vậy Đại hội XI lại trở về với tinh thần Cương lĩnh 1991, theo tôi đây là điều hiếm có trong xây dựng văn kiện Đảng. “Công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu” là đặc trưng khi kết thúc thời kỳ quá độ. Theo tôi, có thể phải nghiên cứu nhiều hơn về luận điểm này.

Về vấn đề đối ngoại, trước kia ta xác định quan hệ với các đảng cộng sản, đảng cánh tả, đảng cầm quyền trên cơ sở tôn trọng độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển… Trên thực tế, ta còn duy trì và mở rộng quan hệ với một số đảng khác, kể cả đảng không còn cầm quyền. Vì vậy, Cương lĩnh lần này đã xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam trước sau như một ủng hộ các đảng cộng sản và công nhân, các phong trào tiến bộ xã hội trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu chung của thời đại. Đảng Cộng sản Việt Nam mở rộng quan hệ với các đảng cánh tả, các đảng cầm quyền và những đảng khác trên thế giới trên cơ sở độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển”.

Cũng còn nhiều vấn đề được tranh luận sôi nổi như: Vấn đề chăm lo phát triển con người, thế nào là định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường ở nước ta…

PV: Trong Báo cáo chính trị trình Đại hội XI, xin ông cho biết có những nội dung nào mới và quan trọng?

PGS, TSKH Nguyễn Văn Đặng: Trong một bài phát biểu ngắn, khó thể hiện đầy đủ, chỉ xin nêu một số điểm lớn:

Trong Báo cáo chính trị đã khẳng định tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, và trong đổi mới đó nói rõ không chỉ đổi mới kinh tế mà còn đổi mới chính trị. Tuy nhiên, đổi mới chính trị không phải theo nghĩa đổi mới về thể chế chính trị mà là đổi mới về tư duy chính trị và hệ thống chính trị để xây dựng CNXH phồn vinh, hạnh phúc.

Về kinh tế, điểm nổi bật là Báo cáo chính trị đã xác định phải “đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, phát triển kinh tế nhanh, bền vững”. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng là chủ yếu sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu. Đây là hướng đi đúng vì đất nước muốn phát triển nhanh, còn thiếu vốn, thiếu điện, thiếu hạ tầng… không thể không tiếp tục phát triển theo chiều rộng nhưng lại phải cân đối cả chiều sâu để phát triển bền vững. Hay như chủ trương: “Cơ cấu lại, xây dựng nền công nghiệp theo hướng phát triển mạnh những ngành có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững…” theo tôi cũng rất quan trọng. Sau này, từ đây mà rà soát lại chiến lược phát triển từng ngành, từng lĩnh vực.

Phần nói về kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng đã nêu rõ thêm những tiêu chí, đặc trưng của định hướng XHCN cần không ngừng tạo dựng trong phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta.

Về văn hóa xã hội, Báo cáo chính trị xác định phải đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục của đất nước. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, đổi mới toàn diện thì rõ rồi, nhưng đổi mới căn bản thì ở mức độ cao hơn.

Báo cáo lần này cũng đề cập đậm đà hơn về kinh tế tri thức, về an sinh xã hội, coi đó là chính sách lớn. An sinh xã hội trên thế giới là một vấn đề lớn, như một cái “lưới” đỡ, không để những người gặp khó khăn, yếu thế rơi vào hố sâu của sự bần cùng. Chúng ta cũng cần tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm an sinh xã hội của nhiều nước trên thế giới.

 Về quốc phòng-an ninh, đối ngoại, báo cáo nói rõ hơn về nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, nói rõ hơn về các mối quan hệ, về sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước với lĩnh vực này. Về đối ngoại nói rõ hơn quan điểm “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” chứ không chỉ là “hội nhập kinh tế quốc tế” như trước kia.

Báo cáo cũng nói rõ hơn về Nhà nước pháp quyền XHCN.

Về Đảng, bản chất của Đảng được diễn đạt như Đại hội X nhưng nói rõ hơn về yêu cầu xây dựng Đảng vững mạnh, nâng cao sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo của Đảng, có hẳn một trường đoạn nói về người đảng viên; nói rõ hơn yêu cầu đảng viên phải gắn bó mật thiết với nhân dân. Báo cáo cũng nêu việc thực hiện thí điểm việc kết nạp những người là chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng…

Đặc biệt, phần kết luận của Báo cáo chính trị không đơn thuần chỉ là lời kết mà chính là việc xác định những nội dung trọng tâm, trọng điểm nhất cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tạo sự chuyển biến toàn diện, mạnh mẽ, gồm 6 vấn đề: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; cải cách hành chính; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, nhất là hệ thống giao thông; đổi mới quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, giải quyết một số vấn đề xã hội bức xúc; nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí…

Bài 3: Những người phác thảo “kế sách” giữ nước

NGUYỄN VĂN MINH (thực hiện)

Bài liên quan:
Bài 1: Thực tiễn luôn là thước đo chân lý