QĐND Online - Đã có một thời, anh cùng ngưòi dân nơi đây cùng chia đôi viên ký ninh, cùng đốt đèn nắn từng nét chữ. Bởi vậy mà người dân gọi anh là “Thầy” bao gồm cả thầy thuốc, thầy giáo quân hàm xanh. Đó là Phạm Đăng Quyết, cán bộ Đồn BP Vĩnh Hy (Ninh Thuận). Xa Vĩnh Hy được hơn 10 năm rồi, ngày hôm nay trở lại, người dân nơi đây vẫn yêu quý anh bằng tất cả sự trìu mến...
Chuyện... ngày xưa
Ngày ấy, muốn xuống Vĩnh Hy (huyện Ninh Hải, Ninh Thuận) phải đi bộ theo đường mòn của người dân sở tại hoặc đi ghe từ Ninh Chữ cả ngày trong thời tiết Phan Rang “nắng cứ như rang, gió cứ như phang vào người”. Đất nước giải phóng, cái được duy nhất là được tự do, được làm chủ mảnh đất mình ở nhưng cái nghèo, bệnh tật cứ đeo đẳng với người dân. Bởi vậy những bàn tay, sự giúp đỡ của những người lính của Đồn BP Vĩnh Hy, lực lượng duy nhất “vững vàng” cùng người Rắc Lây trong mọi hoàn cảnh như chiếc phao cho người Rắc Lây nơi đây.
Cái nghèo ở Vĩnh Hy không chỉ là “cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc” mà còn cả nghèo cái chữ, nghèo văn hoá. Nghèo, lạc hậu kéo theo cái đói, đói kéo theo bệnh tật, bệnh tật lại kéo theo cái nghèo… Cái vòng luẩn quẩn mãi chưa có lối ra. Nhiều người đã bỏ quê ra đi thì ngày ngày những người lính quân hàm xanh của Đồn BP Vĩnh Hy vẫn cùng bà con bám rừng Núi Chúa, bám biển Vĩnh Hy để dựng xây cuộc sống. Ngày đó người ta vẫn thấy một người lính da trắng như con gái, quê Hải Phòng luôn đeo bên mình một túi vải bên trong có thuốc và sách đi từ thôn này đến thôn khác, đến nhà này rồi nhà khác. Nhớ lại về những ngày đầu khó khăn ấy, nhiều người vẫn rùng mình. Ở Vĩnh Hy, từ người Kinh đến người Rắc Lây, thật khó có thể tìm ra người không bị sốt rét. Thiếu thuốc, thiếu dụng cụ y tế là thiếu chung của cả nước chứ không phải của riêng Vĩnh Hy khiến y sĩ Phạm Đăng Quyết phải “tự sáng tạo” và “tiết kiệm tối đa”. Dây truyền dịch rất hiếm nên phải luộc sát trùng 10 lần mới dám thay dây khác. Thay rồi anh lại tỉ mẩn tết thành đồ chơi là con tôm, con cá “dụ” trẻ em mỗi khi phải tiêm. Không đếm được hết số lần luộc kim tiêm, chỉ nhớ khi nào kim mài ngắn tới mức không thể ngắn hơn được nữa mới dám lấy kim mới ra thay. Bao đời nay, phụ nữ Rắc Lây mang thai, người chồng ra bìa rừng làm một cái chòi nhỏ để vợ tự “vượt cạn”. Lương tâm của người lính quân y không thể “nhắm mắt làm ngơ” trước hoàn cảnh đó nhưng không phải “nói là người ta dỡ bỏ chòi về nhà sinh nở”. Đó là tập tục không dễ thay đổi. Vậy nên, cứ mỗi lần thấy có lều dựng ngoài mé đồi, anh lại… nghe ngóng, canh chừng. Có lần, đêm 30 Tết, giao thừa được nửa tiếng anh mới về tới đồn, cán bộ, chiến sĩ trêu: “Vừa nãy đỡ đẻ được đứa con trai mới cho vào xông đất của đồn đấy nhé!”. “Thật may” là lần đấy anh đã đỡ cho một bé trai chào đời. Cứ như vậy, không thể nhớ hết bao nhiêu đứa trẻ ở Vĩnh Hy này đã trào đời trên tay anh.
 |
Thầy Quyết (thứ 2 bên trái) cùng gia đình anh Liếng, chị Tảo |
Mải miết suốt nửa cuộc đời theo bộ đội đánh giặc, người Rắc Lây không biết chữ. Giờ đây, dưới ánh đèn dầu, đêm đêm những bàn tay quen cầm súng đánh giặc, cầm cuốc làm nương nay lại cầm bút nắn từng nét chữ. “Chữ không ăn được nhưng chữ chỉ cho người Rắc Lây cách trồng cây lúa nặng bông, cây bắp nhiều hạt…” – Ông Pa To Sa Kiên vẫn nhớ như in lời thầy Quyết nói ngày nào. Lớp học ngày ấy có hai thầy giáo chính là Phạm Đăng Quyết và Nguyễn Vinh Dự (lúc đó là đội trưởng Đội vận động quần chúng nay vẫn công tác tại Bộ Chỉ huy BĐBP Ninh Thuận) và một số người tăng cường mỗi khi thầy Quyết, thầy Dự đi họp. Lớp học chỉ có 15, 16 học sinh nhưng luôn phải thường trực 2 - 3 thầy giáo trong một buổi mới đủ để “cầm tay nắn từng nét bút”. Tận tụy, cần mẫn với những học sinh chỉ kém mình một vài tuổi từ ngày này qua tháng khác. Lớp học cũng không khác một nhà trẻ vì nhiều học sinh cõng cả con đi học do không có ai trông và cũng để “nhờ thầy Quyết xem làm sao đêm qua người con nóng, bỏ ăn”… Nhiều đêm, đốt đuốc ngoài cửa lớp “phụ ánh sáng cho đèn dầu”, miệng thì dậy đánh vần nhưng lòng cứ nơm nơm lo lửa bén vào mái gianh. Có những hôm, phải về đồn giao ban thì gặp lũ. Con suối Lồ Ồ thường nước chỉ đến đầu gối, gặp cơm mưa, núi dốc nước đổ về như ghềnh thác. Đứng nên này suối, đồng đội ném mì tôm sang ăn tạm, đợi nước rút. Ấy thế nhưng lớp học vẫn tồn tại cho tới lúc tất cả học sinh đã biết đọc, biết viết…
Và chuyện ngày nay
Sau hơn 10 năm về quê nghỉ hưu, năm nay người lính Phạm Đăng Quyết mới có dịp trở lại Vĩnh Hy… Đi cùng anh về thăm thôn Cầu Gẫy, chứng kiến tình cảm của bà con dành cho cựu lính Biên phòng này tôi không khỏi không xúc động. Thêm một lần nữa, gặp những “nhân chứng sống” trong những lời kể về anh. Chị Cao Thị Tảo đem lòng yêu anh Liếng nhưng không được họ hàng chấp nhận nên khi về chung sống với nhau, gia đình, họ hàng đều cô lập hai người. Chị Tảo mang thai, anh Liếng cũng làm chòi ngoài rẫy. Chị Tảo gần như kiệt sức mà đứa trẻ vẫn không ra được vì thai ngược. Anh Liếng như ngồi trên đống lửa, chả lẽ người làng nói đúng: “Trời phạt”. Đang chưa biết phải làm thế nào thì thấy bộ đội Quyết khoác túi quân y chạy lại… Hơn 1 tiếng sau, 1 bé trai bụ bẫm ra đời. Anh về Hải Phòng, cũng từ đó mà đứa bé ấy luôn tin rằng: “Bố Quyết gửi nó cho bố Liếng nuôi, còn bố Quyết đi bộ rồi”. Trở lại sau 10 năm xa cách, vợ chồng chị Tảo, anh Liếng đón anh Quyết về nhà như đón ân nhân, ruột thịt. Hỏi đứa bé ngày xưa đâu, chị Tảo tiếng rẻ: “Nó không biết anh về nên nó đang ở nhà nội. Mà vợ chồng em lấy tên của anh đặt cho cháu. Tên cháu là Cao Quyết Anh anh ạ”. Cũng tại Cầu Gẫy, anh gặp lại những học sinh cũ của mình, như Cao Văn Nhọc, cậu học sinh cá biệt ngày nào giờ đây bỗng “bẽn lẽn” khi gặp lại thầy Quyết. Anh gặp lại cô học trò học giỏi nhất lớp Cao Thị Láo, giờ đây đã có con trai là Cao Văn Cóc đã theo chân người thầy của mẹ nhập ngũ bộ đội Biên phòng và mong rằng sau này cũng được trở thành thầy thuốc quân hàm xanh của đồng bào…
Còn rất nhiều câu chuyện cảm động mà tôi được nghe, được thấy về cựu thầy giáo, thầy thuốc quân hàm xanh ở vùng biển, núi Vĩnh Hy này. Tất cả những câu chuyện ấy không thể đăng tải hết trên bài viết nhưng đối với riêng tôi, được thêm hiểu về đồng đội của mình. Cảm ơn anh đã cho thế hệ đi sau được tự hào về những người đi trước.
Bài và ảnh: Nguyễn Trúc Hà