QĐND - Lịch sử Cách mạng ghi nhận Võ Thúc Đồng thuộc thế hệ lập quốc. Ông vào Đảng lúc 16 tuổi, tham gia lãnh đạo phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh ngay trên quê hương Thanh Chương. Người cộng sản trẻ tuổi ấy bị thực dân Pháp xử án lưu đày 15 năm tù khổ sai chung thân. Ông bị cầm cố từ nhà tù Lao Bảo đến địa ngục trần gian Côn Đảo. Cách mạng Tháng Tám như cơn lốc lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, giải phóng 2000 chính trị phạm Côn Đảo, trong đó có Võ Thúc Đồng. Như cánh chim báo bão vừa thoát khỏi nhà tù thực dân, ông lao vào xây dựng chính quyền dân chủ còn non trẻ ở Phú Yên, Khánh Hòa. Ông làm Bí thư Tỉnh ủy Kon Tum, Quảng Bình rồi Chủ nhiệm Chính trị Quân khu 4, Chính ủy Mặt trận Trung Lào kiêm Chính ủy Trung đoàn 16 quân tình nguyện. Từ lực lượng vũ trang, ông được điều về làm Phó bí thư liên khu ủy, năm 1959 đến năm 1971, ông làm Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An. Ông là Ủy viên Trung ương Đảng khóa III và khóa IV, từng là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Liên bang Xô-viết, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp, Trưởng Ban Nông nghiệp Trung ương.

Đón Bác Hồ thăm Nghệ An tháng 12-1961, Bí thư Tỉnh ủy Võ Thúc Đồng đi bên trái Bác Hồ.

Những năm chống chiến tranh phá hoại ác liệt của không quân và hải quân Mỹ, Đảng bộ, nhân dân Nghệ An thường xuyên bắt gặp phong thái tự tin, quả quyết của Bí thư Tỉnh ủy Võ Thúc Đồng. Ông có mặt hầu hết tại các trọng điểm bảo đảm giao thông dọc Quốc lộ 1A, đường 7, đường 15A và dọc tuyến biển từ Lạch Cờn đến cảng Bến Thủy. Khi là chiếc xe Gát 69 phủ xanh lá ngụy trang, có khi chỉ trên chiếc xe đạp Thống Nhất bê bết bùn đất, ông đến với cán bộ, công nhân phà Bến Thủy, phà Hoàng Mai, Đại đội Pháo mặt đất Nghi Yên, Quỳnh Long, Đoàn Phòng không 222, 283. Ông kiểm tra từng mố cầu, bến phà và đường kéo pháo vào trận địa.

Đồng chí Võ Thúc Đồng (1914-2007).

Chưa hết, ông ngược rừng đến Nhà máy Diêm, Nhà máy Phốt phát 3-2, Nhà máy Gỗ, Nhà máy Điện, sơ tán tận Thanh Chương, Khe Sừng (Anh Sơn). Rồi ông cùng với lãnh đạo Ty Nông Nghiệp và huyện Hưng Nguyên, huyện Yên Thành tạo lập nên nhiều cánh đồng 5 tấn lúa ở Tây-Yên-Trung (Hưng Nguyên), Liên-Phúc-Thọ (Yên Thành) để bảo đảm yêu cầu chi viện hàng chục vạn tấn lương thực cho các mặt trận với ý chí: “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Hệ thống dẫn nước từ đập Đô Lương bị bom đạn băm nát ở Lạc Thổ (Yên Thành), ông chỉ đạo thành lập lực lượng xung kích bám trụ suốt 24 giờ, vừa trực chiến đánh máy bay vừa hàn gắn công trình bị phá hỏng. Và hơn ba vạn héc-ta lúa vùng Diễn-Yên-Quỳnh vẫn đủ nước vụ chiêm, vụ mùa. Chính ông đã chỉ đạo ngành nông nghiệp mạnh tay đưa thêm vụ thu vào vùng chiêm trũng Hưng Nguyên, Yên Thành và Quỳnh Lưu, tăng thêm hàng vạn tấn lương thực. Chưa đủ, ông còn chỉ đạo thành lập hàng chục trại chăn nuôi lợn ở Yên Thành, Diễn Châu, đưa giống lợn Móng Cái từ Quảng Ninh vào nuôi thuần chủng rồi cung cấp lợn giống cho hàng vạn hộ xã viên nông nghiệp chăn nuôi theo cơ chế khoán trọng lượng.

Coi trọng vai trò hậu cần tại chỗ, phát triển sản xuất công nghiệp thời chiến, ông chỉ đạo quyết liệt thành lập Xí nghiệp phao-phà, cơ khí Nam-Hưng-Nghi, bảo đảm phương tiện vượt sông và công cụ cầm tay cho công nghiệp, lâm nghiệp, giao thông vận tải, nông nghiệp, ngư nghiệp. Chẳng ai có thể tin Nghệ An vào thời điểm chiến tranh phá hoại khốc liệt nhất vẫn sản xuất được xà phòng, phân phốt phát, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc chữa bệnh, rồi giấy viết… trong hoàn cảnh thiếu điện cao thế, thiếu nguyên vật liệu chủ yếu, đường sá liên tục bị tắc. Công lao ấy không thể không nhắc tới vai trò lãnh đạo của đồng chí Võ Thúc Đồng.

Từng là phóng viên chiến tranh, nhiều chuyến công tác được theo chân Bí thư Tỉnh ủy, tôi bắt gặp ở ông một phong cách chỉ đạo báo chí rất sắc sảo và người thầy làm báo mang đậm chất chuyên nghiệp. Ông luôn đặt vấn đề có tính khái quát và gợi ý để nhà báo nêu quan điểm, cách thể hiện ra sao một chủ đề tư tưởng. Đi công tác ở đâu, ông đều gọi nhà báo đi cùng... Xem xong mỗi số báo, ông đều điện thoại trao đổi thẳng thắn với Tổng biên tập Nguyễn Hường những hạn chế, sai sót nội dung, hình thức thể hiện. Ông rất “dị ứng” với lối viết sáo mòn, minh họa, khen bốc đồng và không có hiệu quả thông tin thiết thực.

Chủ tịch đoàn Xô-viết tối cao Liên Xô Pô-gốt-nưi gắn Huân chương Hữu nghị các dân tộc cho đồng chí Võ Thúc Đồng (1974). Ảnh tư liệu

Tôi đã được xem bút tích của ông trên từng trang báo, thậm chí từng cái tít của bài báo. Nhìn nét bút dọc, ngang, khoanh tròn, gạch đậm dưới câu chữ mà ông cho là “ngớ ngẩn”, “dây cà dây muống”, “lủng củng”, “tối nghĩa” trên trang báo, nếu thiếu tự tin, người làm báo hẳn không đủ kiên nhẫn để theo nghề. Nhưng lạ kỳ là khi trao đổi trực tiếp với phóng viên về những sai sót, ông lại rất chân tình, để rồi sau đó ông chỉ đạo Ban biên tập cử phóng viên đi học dài hạn, ngắn hạn cả về lý luận và nghiệp vụ chuyên môn. Các nhà báo Thanh Phong, Lê Quý Kỳ, Tô Quốc Bảo, Lăng Phước, Bùi Ngọc Trình, Dương Huy,… đã trưởng thành lên nhiều nhờ sự quan tâm cụ thể của ông.

Tôi còn nhớ khi ông được Đảng và Nhà nước cử làm Đại sứ tại Liên Xô cuối năm 1971, ông đã đến Tòa soạn Báo Nghệ An sơ tán tại xã Tân Sơn (Đô Lương) thân mật chuyện trò với anh chị em làm báo trước lúc chia tay. Dịp nào về nước, ông cũng đến Báo Nghệ An thăm hỏi từng nhà báo, nhắc từng tính cách của phóng viên, cả những “tai nạn nghề nghiệp” rồi cười khà khà sảng khoái. Quà của ông là chiếc máy ảnh Goóc-ky chụp phim đen trắng và một lần khác là một chiếc máy ghi âm chạy pin Văn Điển. Mãi sau này khi làm Chủ nhiệm Ủy ban Nông nghiệp Trung ương, ông vẫn luôn quan tâm tới Báo Nghệ An, theo dõi từng bước trưởng thành của một số nhà báo mà ông có lần nhắc nhở.

Cho tới lúc tôi chuẩn bị viết cuốn sách “Báo chí Cách mạng Việt Nam trong nhà lao thực dân Pháp”, tiếp xúc với ông, nhờ ông thẩm định nguồn gốc xuất bản tờ báo “Ý kiến chung”, “Người tù đỏ”, “Tiến lên” trong Nhà tù Côn Đảo, giai đoạn 1936-1944, tôi mới được biết, ngoài đồng chí Tôn Đức Thắng, Nguyễn Duy Trinh, Lê Văn Lương, Nguyễn Hới, Phạm Hùng, Lê Duẩn bị giam cầm ở khám 6, khám 7, khám 9, banh 1, còn có Võ Thúc Đồng là người sáng lập nên các tờ báo đặc biệt này. Phải chăng tố chất nhà báo, kinh nghiệm làm báo mà ông truyền cho lớp hậu sinh được bắt nguồn từ 10 năm bị đày đọa, nhục hình tàn khốc tại ngục tù Côn Đảo (1935-1945) mà vẫn kiên trinh đấu tranh bằng vũ khí báo chí.

VĂN HIỀN