QĐND - Trong suốt cuộc trò chuyện, tôi chỉ thấy anh nói về rừng, môi trường, sinh thái, thảm thực vật... với đôi mắt long lanh ẩn chứa niềm đam mê kỳ lạ. Có lẽ điều đó bị ảnh hưởng bởi suốt từ năm 1989 đến nay, công việc của anh luôn gắn với những khu sinh thái, những cánh rừng bạt ngàn từng bị hủy diệt bởi chất độc hóa học; những khu đất quốc phòng quản lý nơi biên cương của Tổ quốc. Có người trêu đùa, gọi anh là “người phải lòng” những cánh rừng...

Từ cái duyên với quân đội...

Mặc dù mới ngoài 40 tuổi (sinh 10-5-1971), nhưng mái tóc của Trung tá, Tiến sĩ (TS) Nguyễn Đăng Hội, Phó viện trưởng Viện sinh thái Nhiệt đới (Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga) đã điểm đầy những sợi bạc, có lẽ do ảnh hưởng bởi những chuyến “3 cùng” với rừng. Được biết, anh sinh ra và lớn lên ở xã Thạch Tiến, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa, năm 1989 thi đỗ vào Khoa Địa lý - Địa chất Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Tốt nghiệp ra trường, anh được nhận vào làm việc tại Viện Địa lý Việt Nam. “Đang công tác ở một cơ quan đúng chuyên môn như vậy, sao anh lại vào quân đội?” - tôi thắc mắc. Nghe câu hỏi của tôi, anh Hội chỉ cười và nói: “Chắc do cái “duyên”. Rồi anh giãi bày tâm sự: “Sau khi đi làm được một năm thì mình có giấy gọi lên đường thực hiện nghĩa vụ quân sự. Nhận thấy đây là nghĩa vụ, trách nhiệm của người công dân đối với Tổ quốc nên mình vui vẻ xếp công việc lại, lên đường tòng quân và thật may mình được điều về công tác tại Quân khu Thủ Đô (nay là Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội)”.

Anh kể tiếp, khi còn là sinh viên đại học, mình đã đam mê, thích khám phá những kiến thức mới lạ về môi trường, sinh thái, lúc đó chuyên ngành môi trường sinh thái còn khá mới ở Việt Nam. Đề tài mà mình tâm đắc nhất và thực hiện ngay từ năm học thứ ba, đó là: "Nghiên cứu mô hình hệ kinh tế sinh thái của huyện Thanh Trì, Hà Nội". Lúc đó thuật ngữ “kinh tế sinh thái” mà mình nghiên cứu còn khá mới mẻ ở trong nước, tài liệu tiếng Việt thì hầu như không có, phải tìm kiếm, dịch từ tài liệu nước ngoài. Nhiều thầy giáo thấy mình trình bày ý tưởng ban đầu còn “ái ngại”, nhưng sau thấy mình quyết tâm nên nhiệt tình giúp đỡ”.

Trung tá, Tiến sĩ Nguyễn Đăng Hội cùng đồng nghiệp khảo sát thực địa.

Do có “máu” nghiên cứu khoa học nên khi vào môi trường quân đội, Nguyễn Đăng Hội vẫn ấp ủ những đề tài về môi trường sống, hệ sinh thái, về những cánh rừng nơi anh và đồng đội ngày đêm huấn luyện. Tận dụng những lần được ra ngoài, anh “liều mình” đến các cơ quan đầu ngành về môi trường của quân đội xin được đề xuất ý tưởng. Nhận thấy niềm đam mê nghiên cứu khoa học của anh, khi kết thúc thời hạn nghĩa vụ, Nguyễn Đăng Hội được giữ ở lại quân đội và cử đi học sĩ quan dự bị tại Trường Quân sự Quân khu 3. Khi đang học, cán bộ của Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga đã tìm đến động viên và ngỏ ý xin anh về cơ quan.

Nói về quyết định gắn bó với công tác nghiên cứu trong quân đội, anh Hội tâm sự: “Lúc đầu nhập ngũ, mình chỉ nghĩ sau khi hoàn thành nghĩa vụ công dân sẽ trở về cơ quan cũ làm việc. Nhưng khi sống trong môi trường quân đội, mình thấy yêu và muốn gắn bó với quân ngũ. Vì vậy, mình quyết định ở lại để được thực hiện những đề tài, ý tưởng về môi trường, sinh thái trong quân đội, mảng đề tài mà hầu như chưa có nhiều người nghiên cứu, đề cập sâu...”.

... Đến những ý tưởng mới lạ

Về Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga, sau khi làm quen với môi trường làm việc mới, Nguyễn Đăng Hội hào hứng xin được tham gia các công trình nghiên cứu của cơ quan và lập kế hoạch của cá nhân. Khi được tham gia đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của chiến tranh hóa học tới môi trường và các hệ sinh thái tự nhiên huyện Sa Thầy, Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum”. Từ những kết quả nghiên cứu, anh đã đưa ra quan điểm khá mới khi khẳng định: Những khu rừng từng bị nhiễm chất độc hóa học hoàn toàn có khả năng tái tạo, dù không được như trước. Hiệu quả việc tái tạo phụ thuộc rất lớn vào ý thức, hành động của con người. Từ đề tài này, anh và cộng sự đã thay đổi được quan điểm của nhiều người về vấn đề bảo vệ, tái tạo môi trường sinh thái, qua đó góp phần vào việc cải tạo diện tích rừng từng bị chất độc hóa học tàn phá hiện đang do các đơn vị quân đội quản lý. Sau đó, anh đã chỉnh sửa, phát triển nội dung đề tài này để làm luận án tiến sĩ, được hội đồng khoa học đánh giá cao.

Trung tá, TS Nguyễn Đăng Hội lấy mẫu đất để phục vụ nghiên cứu.

Có một điều dễ nhận thấy ở Trung tá, TS Nguyễn Đăng Hội, đó là khi giới thiệu về các đề tài do mình làm chủ nhiệm, anh luôn nhắc đến những đóng góp của đồng nghiệp với sự trân trọng. Theo anh, chính họ mới là người giúp anh làm nên thành công của đề tài. Có những đề tài anh và đồng nghiệp phải thực hiện tới 10 năm mới hoàn thành, nếu không có sự “giúp sức” của đồng nghiệp thì chắc anh không thể nào thực hiện nổi. Từ những nghiên cứu, tâm huyết của anh và đồng nghiệp, anh đã chọn một số vấn đề mới để in chung trong một cuốn sách cùng một số nhà khoa học nước ngoài, phục vụ bạn đọc Việt Nam. Trong đó, có những lý luận, quan điểm mới về sinh thái lần đầu tiên được nhắc tới ở nước ta.

Vẫn còn “nặng nợ” với rừng

Hơn 10 năm gắn bó với công việc nghiên cứu trong môi trường quân đội, lặn lội ở biết bao cánh rừng, Trung tá, TS Nguyễn Đăng Hội dường như vẫn chưa “thỏa”. Nhìn thấy những cánh rừng đang trồng theo kiểu “cảm tính”, anh không khỏi xót ruột. Sau thời gian ấp ủ, anh đã quyết định làm tiếp một đề tài về rừng, đó là: “Khảo sát, đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên rừng do quân đội quản lý”. Để thực hiện đề tài, anh dẫn đầu các đoàn nghiên cứu đi đến 9 đơn vị, thuộc 3 quân khu có rừng, nằm trên 3 vùng Bắc, Trung, Nam. Nhiều khi xuống đơn vị, không kịp ăn uống, anh đã vội xin xuống ngay hiện trường để khảo sát, đánh giá bước đầu về thực trạng. Có những lần, đang đi khảo sát thực tế tại Cụm kho CK80, Quân khu 3 thì xe của đoàn bị chết máy giữa rừng. Anh phải gọi điện nhờ xe của đơn vị chạy hơn 80km đến để “cứu viện”. Khi nói về kỷ niệm đó, anh cười tươi: “Đối với người đi rừng, thì khó khăn, vất vả nhiều lắm. Nhưng sau khi vượt qua khó khăn ấy, mình lại thấy hưng phấn, yêu nghề hơn”. Sau gần 2 năm trời cùng đồng nghiệp thu thập, khảo sát, đánh giá, đề tài của anh đã khái quát được thực trạng công tác quản lý, bảo vệ, phát triển kinh tế rừng của các đơn vị, nhất là khối các đơn vị trường bắn, kho tàng, đoàn kinh tế-quốc phòng. Từ đó, xây dựng được bộ cơ sở dữ liệu không gian, đề xuất các nhóm giải pháp để các đơn vị quản lý, khai thác, bảo vệ, sử dụng hiệu quả diện tích rừng. Mặc dù chưa được áp dụng đồng loạt, nhưng nhận thấy ý nghĩa chiến lược, thiết thực của đề tài, năm 2011, công trình mà Trung tá, TS Nguyễn Đăng Hội và cộng sự Đại úy, Thạc sĩ Phạm Mai Phương đã được trao giải Nhất về Tuổi trẻ sáng tạo trong quân đội.

 “Chưa làm xong đề tài này, đề tài khác lại ập đến, dồn dập suốt bạn ạ” - Anh cười tâm sự, rồi “khoe”: "Hiện nay, mình đang được giao chủ trì tư vấn và phối hợp thực hiện giúp 4 quân khu phía Bắc đánh giá ảnh hưởng của biến đổi khí hậu với công tác huấn luyện, xây dựng và sử dụng các công trình quốc phòng; quy hoạch và sử dụng không gian lãnh thổ. Đây là nội dung khá mới mẻ, có tác dụng giúp các đơn vị quy hoạch, sử dụng không gian hợp lý, có tính ổn định, đồng thời nâng cao đời sống, sức khỏe bộ đội, sức mạnh chiến đấu của các đơn vị. Từ khi nhận thêm nhiệm vụ, mình và các đồng nghiệp càng phải đi nhiều hơn, có chuyến xa nhà hàng tuần, hàng tháng. “Thế bà xã có bao giờ than phiền về việc anh yêu rừng hơn cả vợ không?” - Tôi hỏi vui. Anh cười: “Cũng may mà vợ mình làm cùng cơ quan nên cũng hiểu và hết lòng ủng hộ công việc của chồng. Không chỉ có vợ, mà các con tuy còn nhỏ, nhưng cũng tỏ ra thông cảm cho công việc của bố. Nhiều lúc cũng muốn nghỉ ngơi một thời gian, dành thời gian cho vợ con, nhưng nghĩ đến những cánh rừng, đến công việc, mình lại lên đường, đi như bị “mắc nợ” vậy. Hiện nay, chỉ còn 4 tỉnh ở Việt Nam này là mình chưa đặt chân đến thôi”.

Tôi biết, anh cười vậy thôi, nhưng nét mặt vẫn hơi trầm tư khi chạnh lòng nghĩ về gia đình, vợ con, nghĩ về vai trò của người làm cha. “Thôi, khi nào về hưu thì bù đắp cho vợ con sau anh ạ!” - Tôi động viên anh sau một thoáng im lặng. Anh cười, nhưng ánh mắt lại hướng về phía xa. Trong ánh mắt ấy, tôi cảm giác như có cả màu xanh của những cánh rừng mà anh và đồng nghiệp đã từng đặt dấu chân qua, dồn bao tâm huyết để góp phần gìn giữ, phục hồi...

Bài và ảnh: NGUYỄN VĂN CHIỂN