QĐND - Kỹ sư Nguyễn Như Kim có một lý lịch khá đặc biệt: Tham gia cách mạng từ tháng 8-1945, năm 1951 sang Pháp học trở thành kỹ sư điện tử; năm 1956 là “Việt kiều yêu nước” trở về xây dựng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội từ buổi đầu tiên, đảm nhận cương vị Chủ nhiệm khoa Cơ khí-Điện tử. Giảng dạy được 7 năm, khi Viện Thông tin Khoa học kỹ thuật ra đời, ông được điều làm Viện trưởng. Trước đây, trong một số lần gặp gỡ, trò chuyện, ông Kim đã kể cho tôi nghe một sự kiện mà ông gọi là “chuyến đi đời người” thời kháng chiến chống thực dân Pháp.

Ông Nguyễn Như Kim (năm 2006).

18kg vàng và nhiệm vụ đặc biệt

Ông Nguyễn Như Kim kể:

- Đầu năm 1948, tôi được kết nạp Đảng và phụ trách kỹ thuật của Đài Tiếng nói Việt Nam, đóng tại Phú Bình, Thái Nguyên. Một hôm có lệnh lên gặp Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu. Ngày đó tuy cơ quan Bộ Quốc phòng cũng nằm trong phạm vi cùng huyện, nhưng thầy trò rất ít được gặp nhau, nay gặp lại tay bắt mặt mừng. Tôi còn gần gũi “huynh trưởng” hơn các bạn khác bởi từng được đóng vai phù rể trong lễ ăn hỏi “huynh trưởng” hồi đầu năm 1944 tại làng Đại Yên ngoại thành Hà Nội (phu nhân của giáo sư Bửu là trưởng nữ của một huynh trưởng Hướng đạo sinh khác là Hoàng Đạo Thúy, sau là Đại tá, Cục trưởng Cục Thông tin liên lạc). Giáo sư Bửu thay mặt Bộ Quốc phòng giao cho tôi một nhiệm vụ đặc biệt: Mang vàng sang Xiêm (Thái Lan) mua một số khí tài, vật tư thiết bị cho quân đội. Trong Tuần lễ vàng từ 17 đến 24-9-1945, đồng bào cả nước ủng hộ Chính phủ kháng chiến được tổng cộng 370kg vàng, khi Toàn quốc kháng chiến nổ ra, toàn bộ số vàng đó đã được đưa đầy đủ lên Chiến khu Việt Bắc, nay 18kg vàng ròng được trích ra cho tôi mang ra nước ngoài. Con đường sang Thái ngày đó được đặt tên là “Hữu nghị”, từ Đô Lương, Nghệ An, qua Trung Lào, rồi theo sông Pạc Ca Đinh sang Boung Kla đất Thái. Thời gian công tác khoảng 1 năm. Nhận nhiệm vụ, tôi không khỏi bất ngờ. Từ trước chưa có ai mang một lượng vàng công quỹ lớn như thế, lại đi một mình vào nơi nước sôi lửa bỏng. Rõ ràng có sự tin cậy rất cao của Đảng, Quân đội đối với tôi. Song tôi hiểu, sẽ có nhiều rủi ro đang chờ ở phía trước.

Từ Thái Nguyên vào Nghệ An hàng mấy trăm cây số, ông Kim giả làm người thợ mộc đạp xe đi khắp nơi làm thuê. Tất cả số vàng ông gói kỹ đèo sau xe đạp cùng với cưa đục, một cách vận chuyển thô sơ tuy mạo hiểm lại dễ che mắt địch khi qua vùng tạm chiếm. Có một “sự cố” nhỏ: Lúc xuống thuyền ở bến Trung Hà, người lái đò sốt sắng lên đỡ xe ông xuống thuyền, bỗng kêu toáng, chở gì mà nặng thế? Ông cố giữ bộ mặt bình thản bảo là hòn đá mài đục, tràng đấy mà.

Từ trạm khách Đô Lương, ông Kim theo một đoàn đi công tác sang Lào, có một tiểu đội vệ binh hộ tống. Mất khoảng gần nửa năm vượt dãy Trường Sơn, đến khoảng cuối tháng 7-1948 thì đặt chân lên đất Thái. Chính phủ Thái Lan ngày đó do ông Pri-đi làm Thủ tướng có tư tưởng tiến bộ, ủng hộ cộng sản nên phong trào của kiều bào ta khá rầm rộ. Ông Nguyễn Đức Quỳ (sau là Thứ trưởng Bộ Văn hóa), ông Song Tùng, đại diện của chính phủ ta tại Băng Cốc, đã tạo mọi điều kiện cho ông Kim tìm mua đủ số khí tài, thiết bị như đã dự kiến. Đến gần cuối năm, ta đã gom đủ số hàng, đóng vào mấy thùng, nặng khoảng gần 2 tấn với ý định ban đầu là đưa hàng về nước bằng máy bay, như thế sẽ nhanh chóng và ít khả năng bị phát hiện vì địch không thể ngờ Việt Minh lại vận chuyển bằng đường không. Ở nhà, ta đã chuẩn bị sẵn sân bay dã chiến trên một khu đất bằng ở miền tây Nghệ An, nhưng đến phút chót kế hoạch bị phá sản, mụ tư sản người Thái, chủ chiếc thủy phi cơ Caterina, vì sợ gặp rủi ro đã đột ngột phá vỡ hợp đồng vận chuyển. Chỉ còn cách vận chuyển bằng đường thủy trên Biển Đông, ông Kim lại cùng bà con Việt kiều đưa hàng phân ra các ghe xuồng qua vịnh Thái Lan, tập kết ở mũi Cà Mau. Ngày đó, phong trào Việt Minh trên bán đảo Cà Mau đang mạnh, ông Kim sau này cứ tiếc là không nhớ được tên cụ thể của những đồng chí chủ trì việc mua tàu và tuyển thủy thủ cho mình, vì chỉ gọi họ với những cái tên chung chung là “anh Hai”, “anh Năm”…

Ông Kim mua được một con tàu sắt pha sông biển cũ, thay máy mới, đặt tên là Sông Lô để kỷ niệm chiến thắng Sông Lô vang dội năm 1947, bề ngoài thì vẫn là một tàu chở gạo xuyên Việt. Tuyển được 12 thanh niên khỏe, quen sông nước ở địa phương và ông Kim là 13. Ông lúc đó 27 tuổi, còn thuyền trưởng là ông Hai gần 50 tuổi, vốn làm nghề đánh cá, khỏe mạnh, nhanh nhẹn song ít nói. Số hàng mua ở Thái được giấu dưới cùng, bên trên để nhiều bao gạo che mắt địch, còn có mấy phuy xăng đề phòng khi bị lộ thì phóng hỏa đốt tàu, tất cả cùng hy sinh. Đang mùa biển lặng. Sông Lô xuất phát từ bán đảo Cà Mau một ngày giữa tháng 11-1949, theo đường biển quốc tế lặng lẽ hướng ra phía Bắc. Thường thì ban ngày ghé vào trú ở nơi có cây rậm rạp ven bờ, đêm đi, cũng có khi đi ban ngày trời nhiều mây u ám. Được chừng hơn nửa tháng thì gặp tình huống chạm trán địch.

Ông Kim nhớ lại: “Lúc đó trời rạng sáng, bỗng trên đầu chúng tôi một chiếc Hen-cát từ đâu xoẹt qua. Có chuyện rồi! Chúng tôi hội ý trong chi ủy, đi được gần hết chặng đường, có thể địch đã phát hiện ra tàu chở hàng của Việt Minh, chỉ còn cách tăng tốc để trốn tránh. Theo bác Hai thì đảo Hải Nam (Trung Quốc) không còn cách bao xa nữa, nếu cần ta có thể tạm lánh vào đấy. Nhưng chỉ khoảng nửa giờ sau khi chiếc Hen-cát bay qua, trước mặt chúng tôi xuất hiện ba chấm đen, cứ lớn dần. Ba tàu chiến Pháp. Chúng mau chóng tạo thành gọng kìm bao quanh con tàu Sông Lô nhỏ bé, vũ khí chỉ có vài khẩu súng trường. Ban đầu chúng kêu gọi đầu hàng. Tôi dùng tiếng Pháp nói, đây là tàu buôn gạo. Chúng yêu cầu giảm tốc và sẽ ném cáp sang buộc vào tàu chúng để đưa về cảng Cửa Lò (Nghệ An). Chúng tôi đã có dự kiến cho tình huống xấu nhất này, không thể để người và hàng rơi vào tay giặc! Mấy anh em tưới đẫm xăng trên khắp tàu. Đã nhìn rõ các tên lính Pháp súng ống lố nhố. Phút chốc tàu Sông Lô bùng lên một khối lửa khổng lồ che khuất tất cả, cùng lúc mười ba chúng tôi nhất loạt nhảy xuống biển”.

Khi ông Kim tỉnh lại thì thấy đã bị trói nằm chỏng chơ trên tàu Pháp. Tên lính canh nói là ông bám vào một tấm ván và được vớt lên khi đã ngất xỉu, còn hầu hết số thủy thủ đã chết. Chúng đưa ông vào khám Chí Hòa, Sài Gòn, tiếp đó là chuỗi ngày hỏi cung và tra tấn. Ông đã nếm đủ các đòn: “Tàu ngầm”; đóng đinh vào đầu ngón tay; cột hai ngón tay cái vào hai cực điện, quay manheto cho điện áp tăng vọt… Ban đầu ông chỉ khai là chủ tàu buôn gạo Bắc-Nam, sau chúng đưa các số liệu do Phòng Nhì Hà Nội cung cấp ông là sinh viên năm cuối của Cao đẳng Khoa học đi theo Việt Minh lên Chiến khu. Song trong cách tra hỏi, ông cho rằng chúng hoàn toàn chưa biết được mục đích chuyến sang Thái và số hàng trên tàu, nên ông khai thêm là do không chịu được khổ đã “dinh tê” hai năm nay và đi buôn.

Ông bị giam một năm ở Sài Gòn, do có người họ hàng ở Hà Nội làm trong bộ máy ngụy quyền bảo lãnh, đến đầu năm 1950 ông được thả về Hà Nội, với điều kiện hễ ra khỏi thành phố phải trình báo với hiến binh. Từ đó ông bị mất liên lạc với tổ chức. Năm 1951 ông cùng vợ sang du học Pháp.

Đôi lời cuối bài

Lịch sử cách mạng Việt Nam đã ghi nhận sự kiện: Năm 1946, một số người lãnh đạo Việt Minh tỉnh Bến Tre đã dùng hải lộ ven bờ, trên một thuyền đánh cá xuất phát từ Thạnh Phong (huyện Thạnh Phú) ra miền Bắc xin tiếp tế vũ khí. Và, từ giữa năm 1961 của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thực sự hình thành một Đường Hồ Chí Minh trên biển. Từ câu chuyện trên của ông Nguyễn Như Kim, tôi còn được sự xác nhận của một người trong cuộc khác là ông Song Tùng, công tác tại Bộ Ngoại giao, năm 1948 ông Tùng từng làm “phó” cho ông Nguyễn Đức Quỳ ở Thái Lan. Như vậy trong thời kỳ chống Pháp, còn một "chuyến đi đời người” của ông Nguyễn Như Kim mà đến nay rất ít người biết đến. Dù chuyến này đến phút chót, ông cùng các thủy thủ phải tự tiêu hủy khi đụng địch, không để khí tài rơi vào tay giặc và giữ vững khí tiết của người cách mạng. Việc mình ông đưa một số lượng vàng khá lớn, đi dài ngày rồi bàn giao đầy đủ cho tổ chức cũng nói lên phẩm chất trong sáng của một người cộng sản chân chính.

Ông Nguyễn Như Kim bị đột quỵ, phải nằm liệt trong khoảng một năm và đã lặng lẽ về trời ngày 8-10-2008 tại Hà Nội, thọ 87 tuổi.

Qua câu chuyện của ông Kim, kết hợp với nhiều tư liệu của các nhân vật có thật khác, tôi đã sáng tác cuốn tiểu thuyết sử thi Một ngày là mười năm. Năm 2010, cuốn sách được Bộ Quốc phòng nghiệm thu đánh giá xuất sắc và được Giải thưởng Văn học sông Mê Kông do hội nhà văn ba nước Đông Dương trao tặng.

Bài và ảnh: PHẠM QUANG ĐẨU