QĐND - Đi cùng với chúng tôi đến nhà ông Đặng Hiền Lương, người được mệnh danh “ăn cơm nhà vác tù và cho Hội” ở thị trấn Khe Sanh, còn có các đồng chí đang làm việc ở Hội Cựu chiến binh huyện Hướng Hóa và thị trấn. Khi được Thượng tá Lê Văn Hói, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh huyện giới thiệu về Đội Quy tập mộ liệt sĩ tự nguyện của thị trấn Khe Sanh, do ông Đặng Hiền Lương làm đội trưởng, chúng tôi nóng lòng muốn tìm hiểu ngay. Đó là lý do để có chuyến viếng thăm đột xuất này.

Nhà ông Lương ở tổ 3B, thị trấn Khe Sanh. Vừa nghe tiếng khách từ cổng vọng vào, ông Lương đã vồn vã ra cửa đón. Qua tuần nước chè xanh, tôi vào chuyện:

- Chúng tôi được Huyện hội giới thiệu về Đội Quy tập mộ liệt sĩ tự nguyện của thị trấn Khe Sanh mà bác làm đội trưởng, vậy bác có thể kể chuyện về đội được không?

Nhắc đến công việc của đội, đôi mắt ông Lương chợt chùng xuống, rồi ông bảo:

- Nếu như ông Mai Thanh Hùng còn sống, ông ấy sẽ kể cho các anh nghe ngọn ngành. Ông ấy mất hồi đầu năm 2010. Tôi thay ông ấy mới mấy năm. Đội Quy tập mộ liệt sĩ của thị trấn có 9 người, thành lập năm 1988. Ban đầu, đội viên chủ yếu là những thương binh, bệnh binh, hoạt động tự nguyện. Chi phí cho mọi hoạt động của đội do anh em đóng góp. Sau Hội Cựu chiến binh thị trấn Khe Sanh có trích hội phí hỗ trợ thêm. Năm 2008, khi biết thông tin Đội Quy tập liệt sĩ thị trấn Khe Sanh tự nguyện đi tìm đồng đội, Tập đoàn dầu khí Việt Nam đã hỗ trợ đội 50 triệu đồng. Số tiền đó đã góp phần trang trải cho hoạt động của đội. Mấy năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, địa phương, mỗi lần tìm thấy hài cốt, quy tập mộ liệt sĩ về nghĩa trang đều có tiền mai táng phí, nên hoạt động của đội cũng đỡ một phần kinh phí.

Ông Lương chăm sóc cây cảnh tại vườn nhà.

Xác định đây là công việc tâm linh, nghĩa tình, nên các đội viên không nề hà, bỏ công sức để đi tìm đồng đội. Cứ nghe thấy thông tin ở đâu có liệt sĩ còn nằm lại mà chưa quy tập vào nghĩa trang là đội viên lập tức tìm cách đến ngay, rồi cùng anh em đào bới, tìm thấy hài cốt thì cùng với các cơ quan chức năng xác định danh tính, đơn vị, làm lễ truy điệu quy tập về Nghĩa trang liệt sĩ ở địa phương. Có mộ liệt sĩ, các đội viên phải đào ròng rã hàng tháng trời, tìm thấy hài cốt rồi lại điện ra tận Bộ tư lệnh Quân đoàn 1 để xác định tên tuổi, đơn vị. Mất nhiều thời gian, nhưng làm việc tình nghĩa nên ai cũng có tinh thần trách nhiệm rất cao.

Những thông tin về vị trí có hài cốt liệt sĩ dù rất mong manh, nhưng các đội viên của đội luôn cố công tìm kiếm. Mùa khô còn đỡ, mùa mưa thật vất vả. Các đội viên hầu hết đã cao tuổi, lại bị thương tật, nhưng còn sức là còn đào bới tìm kiếm hài cốt đồng đội. Còn sức là còn trèo đèo, lội suối. Có những lần, đội viên của đội tình cờ phát hiện dòng tên khắc trên tấm tôn, hoặc tấm sắt được những người thu gom phế liệu tập trung về, thế là dò tìm, hỏi xem ai là người bán. Rồi lại truy tìm họ lấy được những tấm bia tôn, bia sắt ấy ở đâu, nghe họ kể có khi câu được câu chăng, các đội viên phải ráp nối thông tin lại rồi cùng nhau lên đường tìm kiếm. Cứ thế, từ năm 1988 đến tháng 1-2010, Đội Quy tập mộ liệt sĩ thị trấn Khe Sanh đã tìm và quy tập 1.508 mộ liệt sĩ, trong đó có 287 mộ liệt sĩ từ đất bạn Lào. Kết quả đi tìm đồng đội và quy tập mộ liệt sĩ của đội đã được báo cáo lên trên. Đội Quy tập mộ liệt sĩ thị trấn Khe Sanh đã được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng ba. Đội trưởng Mai Thanh Hùng được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen.

Công việc của đội hằng ngày vẫn còn tiếp tục, dù những đội viên như ông Hồ Văn Cừ, ông Hoàng Văn Thệch đã 75 tuổi. Ông Lương, Đội trưởng cũng đã sang tuổi 72. Với tâm nguyện không để đồng đội nằm lại chiến trường xưa, trên những miền đất hoang lạnh, các ông ngày đêm đi tìm, lắng nghe thông tin dù rời rạc, đứt quãng báo về. Nhiều khi đồng đội không phải nằm đâu xa, mà nằm ngay thị trấn này thôi. Đó là trường hợp Đội Quy tập liệt sĩ thị trấn đã phát hiện 19 hài cốt liệt sĩ vào ngày 26-1-2011, ngay tại khối 6, thị trấn Khe Sanh. Các hài cốt được xác định là liệt sĩ của Sư đoàn 304, nhưng không ai còn tên tuổi. Sau khi phát hiện, đội đã cất bốc, cùng Hội Cựu chiến binh thị trấn Khe Sanh phối hợp với Đoàn Kinh tế-Quốc phòng 337 và địa phương quy tập 19 liệt sĩ đều không xác định được tên tuổi vào Nghĩa trang liệt sĩ huyện Hướng Hóa. Cũng năm 2011, đội phát hiện hai mộ liệt sĩ, nhưng ở vị trí khó khăn, phải nhờ đến lực lượng công binh rà phá bom mìn để quy tập hài cốt liệt sĩ về nghĩa trang. Nói chuyện về đi tìm mộ liệt sĩ, mắt ông Lương nhòa lệ, nhất là khi ông kể về chuyến đi vào “rừng ma” trên đất bạn Lào để tìm và đưa hài cốt liệt sĩ Trần Thị Thanh Hương về nước.

Ông Lương nhập ngũ năm 1966 vào Quân khu Trị - Thiên từ một giáo viên Trường cấp 2 xã Nam Phúc, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Trong trận đánh ở Bắc Đường 9, ông bị thương và điều trị ở Bệnh viện Nam Hướng Hóa. Sau khi điều trị, ông ra viện và được điều động lên Mường Loòng của tỉnh Xa-vẳn-na-khẹt thuộc nước bạn Lào để giúp bạn xây dựng lực lượng vũ trang. Năm 1971, sau chiến thắng Đường 9-Nam Lào, ông được điều về giảng dạy ở Trường Quân chính Sa-la-van trên địa bàn huyện Tù Muồi, tỉnh Sa-la-van, nước bạn Lào. Trong thời gian công tác ở đây, ông gặp và kết duyên cùng bà Nguyễn Thị Quế khi bà đang công tác ở Bệnh viện Nam Hướng Hóa...

Những năm chiến tranh ở chiến trường Nam Lào cực kỳ khốc liệt. Mọi người bị cái đói và bệnh sốt rét hành hạ triền miên. Chính trong những ngày đói ăn và sốt rét ấy, ông đã từng gặp cô Trần Thị Thanh Hương, là dược sĩ của Bệnh viện Nam Hướng Hóa. Trong một lần đi kiếm tìm cây dược liệu và rau phục vụ chữa trị cho thương binh, bệnh binh, Hương đã hy sinh và an táng ở bản Pơ Lu, xã A-soóc, huyện Tù Muồi. Ông Lương nhớ rõ vị trí chôn cất nữ dược sĩ Thanh Hương, người con gái quê ở huyện Hạ Hòa, tỉnh Vĩnh Phú (nay là Phú Thọ). Sau giải phóng, cơ quan ông và Bệnh viện Nam Hướng Hóa chuyển về nước, mộ nữ dược sĩ Thanh Hương cùng nhiều người khác vẫn nằm lại trên đất Tù Muồi thuộc tỉnh Sa-la-van.

Thấm thoắt đã 40 năm trôi đi. Đầu năm 2011, ông Lương tham gia đoàn khảo sát tìm mộ liệt sĩ trên đất bạn Lào. Ông nhớ về nữ liệt sĩ Trần Thị Thanh Hương và quyết tâm đi tìm. Đoàn của ông đến bản Pơ Lu, dường như không còn dấu vết gì của năm xưa. Khu Bệnh viện Nam Hướng Hóa xưa nay là rừng hoang. Nơi chôn cất liệt sĩ Thanh Hương trở thành khu “rừng ma” của bà con bộ tộc Lào xã A-soóc. Lật giở trong trí nhớ và sơ đồ mộ chí, ông Lương quyết tâm vào “rừng ma” để tìm. Ông trèo đèo, lội qua các khe suối trong rừng ma, mấy ngày, cuối cùng phát hiện ra mộ nữ dược sĩ Thanh Hương trong khu “rừng ma” ấy. Năm 1971, Trường Quân sự Quân khu Trị-Thiên đóng quân ở đây, cùng Trường Quân chính Sa-la-van thuộc huyện Tù Muồi. Gần nơi trường đóng quân có hang đá, nên khi địch đánh phá, cán bộ của trường và Bệnh viện Nam Hướng Hóa sơ tán vào đây. Bây giờ, mộ liệt sĩ Thanh Hương đã nằm giữa “rừng ma” của người dân Lào. Tập tục của bộ tộc Lào khi người chết mai táng trong “rừng ma” thì không được đưa ra ngoài, nếu thuyết phục được trưởng bản, đưa mộ ra ngoài phải làm lễ và những thủ tục rất phức tạp.

Ông Lương cùng đoàn công tác phải tìm đến chính quyền địa phương, vận động người dân cho phép đưa mộ liệt sĩ Thanh Hương về nước. Ông biết tiếng Lào nên khi vận động bà con ở bản Pơ Lu cũng thuận lợi. Ban đầu, vì phong tục nên người dân quyết không cho mang hài cốt liệt sĩ ra. Dân bản bảo, cứ để liệt sĩ đó, dân bản cúng ma thì cúng cho liệt sĩ mà. 40 năm qua, liệt sĩ Thanh Hương đã nằm nơi đất khách, trong “rừng ma” rồi, phải đưa chị về nước. Ông kiên trì vận động bà con ở bản Pơ Lu, cuối cùng trưởng bản cũng chấp thuận, nhưng phải có tiền sắm lễ cúng mới đưa mộ ra khỏi “rừng ma” được. Thế là ông Lương phải dùng cả kính, quần áo của mình để đổi lấy gà, lễ vật cho bản để đưa liệt sĩ Thanh Hương ra khỏi rừng ma. Hài cốt liệt sĩ Trần Thị Thanh Hương được đưa về, làm lễ truy điệu và an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ thị trấn Khe Sanh. Ông Lương còn nhớ, khi còn công tác ở tỉnh Sa-la-van, Nam Lào, dược sĩ Thanh Hương nói là có bố, mẹ trú ở Km5, Nhà máy sứ Tuyên Quang. Thời gian trôi qua lâu rồi, ông cũng gửi thư, điện báo về địa phương, nhưng vẫn chưa có hồi âm của gia đình liệt sĩ Thanh Hương.

Chuyện về Đội Quy tập mộ liệt sĩ tình nguyện ở thị trấn Khe Sanh, chuyện vào “rừng ma” tìm mộ liệt sĩ của ông Lương đã thôi thúc tôi viết nên bài báo này. Những việc làm bình thường hằng ngày của các đội viên cao tuổi như ông Lương, ông Thệch, ông Cừ ở Đội thật có ý nghĩa, chỉ mong muốn đưa các liệt sĩ về Tổ quốc, về nơi nghĩa trang yên nghỉ cùng đồng đội.

Bài và ảnh: Đình Xuân