QĐND - Trần Xuân Độ tên thật là Nguyễn Hữu Tộ (thường gọi là Minh), sinh năm 1894, tại làng Văn Ấp, tổng Ngọc Lũ (nay là xã Bồ Đề), huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, trong một gia đình Nho giáo, có truyền thống hiếu học và yêu nước. Cha mẹ mất sớm, 8 tuổi, ông đã tha phương cầu thực, 12 tuổi làm công nhân ở Hải Phòng, sau đó cùng một số đảng viên Quốc dân đảng đấu tranh chống thực dân Pháp ở Hải Phòng, Hà Nội và nhiều địa phương khác. Sau khi tiếp xúc với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Thái Lan, năm 1929, trở về nước, ông bị Sở Mật thám Hà Nội bắt trong một cuộc bạo động của Quốc dân đảng. Thực dân Pháp giam ông ở Hỏa Lò, Sơn La và cuối cùng đày ra Côn Đảo, giam chung trại với những người Quốc dân đảng. Tại đây, cùng với một số bạn tù như: Trần Huy Liệu, Nguyễn Phương Thảo (Nguyễn Bình), ông tiếp xúc với Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tìm cách chạy sang xà lim của những người Cộng sản. Cách mạng Tháng Tám thành công, ông cùng với hơn 1.700 tù nhân khác ở Côn Đảo được đón về Sóc Trăng. Đúng vào thời điểm Nam Bộ kháng chiến 23-9, ông được phân công về phụ trách công tác Đảng ở tỉnh Bà Rịa. Ngày 10-12-1945, Khu 7 thành lập, ông được chỉ định làm Chính trị bộ chủ nhiệm (Chính ủy). Năm 1949, ông được cử tham gia đoàn đại biểu Xứ Đảng bộ Nam Bộ ra Việt Bắc dự Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ II (tháng 2-1951). Cuối năm ấy, ông về lại Nam Bộ, làm Trưởng tiểu ban Công vận thuộc Ban Dân vận Trung ương Cục miền Nam, Bí thư Liên hiệp Công đoàn miền Tây Nam Bộ. Hiệp định Giơ-ne-vơ ký kết, ông tập kết ra miền Bắc và được cử làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Năm 1962, ông về nước, làm Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ-Bộ Ngoại giao đến năm 1972 thì nghỉ hưu. Ông tạ thế ngày 3-12-1997, thọ 104 tuổi.

Chính ủy Trần Xuân Độ. Ảnh tư liệu.

Cuộc đời hoạt động cách mạng của ông đã nêu một tấm gương sáng ngời về đạo đức của một người Cộng sản. Tôi may mắn được gặp ông ba lần. Lần thứ nhất vào năm 1984, khi tôi tháp tùng Thiếu tướng Nguyễn Đan Thành-Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần đến thăm khi ông vừa từ Hà Nội chuyển vào định cư tại TP Hồ Chí Minh. Ông Nguyễn Đan Thành muốn hỏi chuyện về người cậu ruột của mình-ông Phạm Tuấn Tài, một trong những lãnh tụ Quốc dân đảng trong thời kỳ ở Nhà tù Côn Đảo.

Chúng tôi đến nhà riêng của ông ở 74/9 đường Thạch Thị Thanh, phường Tân Định, quận 1, TP Hồ Chí Minh. Điều làm tôi bất ngờ là ông không phải một cụ già 90 tuổi như tôi hình dung. Trước tôi là một “thanh niên” cao lớn, đi đứng nghiêm ngắn, gương mặt chữ điền, mũi thẳng, da ngăm đen, ánh mắt, nụ cười, giọng nói toát lên vẻ nhân hậu, chân thành. Ông kể cho chúng tôi nghe về những người bị bắt sau cuộc bạo động ở Hà Nội, về cuộc đấu tranh của tù nhân ở  Nhà tù Côn Đảo, về sự giác ngộ lý tưởng Cộng sản của một số đảng viên Quốc dân đảng. Qua lời kể của ông, chúng tôi biết trong Nhà tù Côn Đảo, ông Phạm Tuấn Tài vẫn tiếp tục đấu tranh, cùng một số đồng chí bí mật ra các báo: Tiếng gọi, Tiếng ran, Tiếng gõ.

Chúng tôi cảm ơn ông ra về. Thiếu tướng Nguyễn Đan Thành nhẹ lòng, hiểu thêm về lý lịch người cậu của mình mà sử sách hồi đó còn chưa minh định (bây giờ mộ ông Phạm Tuấn Tài đã được đưa về nghĩa trang liệt sĩ tỉnh, tên của ông đã được đặt cho một con phố ở Hà Nội và TP Nam Định). Riêng tôi, lần đầu tiên biết rằng, ông Trần Xuân Độ chỉ thích kể về thành tích người khác mà ít kể chuyện của mình.

Lần thứ hai là năm 1989. Phòng Lịch sử quân sự Quân khu 7 phân công tôi và anh Trần Phấn Chấn biên soạn cuốn Lịch sử miền Đông Nam Bộ kháng chiến, tập I (1945-1954). Chiến tranh kéo dài quá lâu, hết chống Pháp rồi chống Mỹ, công tác lưu trữ còn nhiều bất cập, việc nghiên cứu lịch sử quân sự thời hiện đại phải dựa một phần quan trọng vào tư liệu trí nhớ của người trong cuộc. Ông Trần Xuân Độ là Chính ủy đầu tiên của Quân khu 7. Dù đã 95 tuổi, nhưng ông vẫn giữ được phong độ như lần đầu tôi gặp. Ông vẫn kể rất ít về mình. Qua các mẩu chuyện chắp nối, chúng tôi ghi thêm được nhiều tư liệu về hoạt động của Bộ tư lệnh Khu 7 giai đoạn 1946-1948.

Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, LLVT cách mạng ở Bà Rịa đang trong giai đoạn xây dựng, thì một đơn vị vũ trang (vốn là lực lượng Phòng vệ Đoàn của Nhật, được Lâm ủy hành chính Nam Bộ công nhận là "Đệ tam sư đoàn”) do Trịnh Ngọc Hiền và Phan Đình Tân chỉ huy kéo về Bà Rịa. Với bản chất lưu manh, cơ hội, Hiền, Tân tiếm quyền chỉ huy LLVT Bà Rịa, không tổ chức luyện quân chiến đấu mà ra sức bắt bớ đảng viên Cộng sản, buộc nhân dân phải đóng góp tiền của, tài sản để tiêu xài, hưởng lạc. Trần Xuân Độ cũng bị chúng bắt giam nhưng chạy thoát.

Với sự nhạy cảm chính trị, Trần Xuân Độ không tin quân đội Hiền-Tân. Ông bí mật cùng các đồng chí trung kiên xây dựng lực lượng tự vệ chiến đấu ở khắp các làng xã, đồn điền cao su; tổ chức tuần tra canh gác bảo vệ chính quyền cách mạng và bố trí hệ thống phòng thủ tại các vị trí trọng yếu. Nhờ đó, khi thực dân Pháp tái chiếm Bà Rịa, lực lượng Hiền-Tân rút chạy, Bà Rịa có cơ sở để xây dựng lại lực lượng vũ trang cách mạng và tổ chức chiến đấu.

Từ tháng 10-1946, khi Bộ tư lệnh Khu 7 chuyển căn cứ xuống Chiến khu Đông thành (Chợ Lớn), Trần Xuân Độ không ở tại Tổng hành dinh Khu mà thường xuyên đi về các địa phương, nhất là về Bà Rịa để chỉ đạo phong trào kháng chiến. Ông chỉ đạo thành lập Tỉnh đội dân quân Bà Rịa, xây dựng hệ thống quân sự các cấp, phát triển phong trào du kích chiến tranh trên địa bàn Bà Rịa, Vũng Tàu liên tục trong những năm 1947-1948.

Ngày 10-12-1945, Xứ ủy lâm thời Nam Bộ họp hội nghị quyết định tổ chức Nam Bộ thành ba khu 7, 8 và 9. Địa bàn Khu 7 gồm thành phố Sài Gòn và các tỉnh: Gia Định, Chợ Lớn, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh và Bà Rịa, gồm cả Vũng Tàu. Bộ tư lệnh Khu được chỉ định gồm Nguyễn Bình (Khu bộ trưởng), Trần Xuân Độ (Chính trị bộ chủ nhiệm, tức Chính ủy), Dương Văn Dương (Khu bộ phó).

Ngày 6-3-1946, thực hiện chủ trương “Hòa để tiến”, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ký kết với Pháp Hiệp định sơ bộ. Theo đó, quân đội hai bên ngừng bắn và ở nguyên vị trí chờ cuộc đàm phán nhằm thực hiện toàn bộ các điều khoản đã được ký kết. Tại Nam Bộ, thực dân Pháp cố tình không thực hiện Hiệp định sơ bộ. Xê-đi-lơ (Cédile)-Ủy viên cộng hòa Pháp ở Nam Bộ ra tuyên ngôn đại ý: Hiệp ước mới được ký kết không dính dáng gì đến Nam Bộ! Tướng Ny-ô (Nyo) vừa lên thay Van-luy (Valluy) làm tư lệnh quân viễn chinh Pháp tại miền Nam Việt Nam (tháng 3-1946) ra lệnh tăng cường các hoạt động chia rẽ Nam-Bắc, vận động tách Nam Bộ thành một xứ tự trị có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng. Nhằm xoa dịu tình hình, đánh lừa dư luận quần chúng, tạo bầu không khí chính trị có lợi trong việc thành lập chính phủ "Nam Kỳ tự trị”, tướng Ny-ô đề nghị đàm phán với đại diện chính phủ kháng chiến tại Nam Bộ.

Trong cuộc họp cán bộ quân sự Khu 7 mở rộng, biết rõ dã tâm của thực dân Pháp, Trần Xuân Độ đề nghị không đàm phán. Ông phân tích rằng, địch chỉ muốn hòa hoãn, đợi viện binh để tiếp tục mở rộng phạm vi kiểm soát ở miền Trung và miền Tây Nam Bộ. Ngày 10-4-1946, cuộc đàm phán vẫn diễn ra tại miếu Bà Cô (xã Thiện Tân, Vĩnh Cửu, Biên Hòa). Pháp do đại tá Pây-lê (Peyler) làm trưởng đoàn. Phía kháng chiến gồm: Đặng Ngọc Tốt (trưởng đoàn), Phạm Thiều (phái viên chính trị), Lâm Thái Hòa (Phái viên quân sự), Lê Đình Chi (phiên dịch). Tại cuộc đàm phán, thực dân Pháp đưa ra luận điểm không công nhận Vệ Quốc đoàn Khu 7 là một bộ phận của quân đội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và đòi phải giải giới. Phía cách mạng kiên quyết phản bác luận điệu xuyên tạc vô lý của phái đoàn Pháp, chứng minh sự hiện diện hợp pháp của Vệ Quốc đoàn, lên án địch vi phạm điều khoản ngừng bắn và âm mưu của chúng trong việc thành lập chính phủ lâm thời Nam Kỳ tự trị. Cuộc đàm phán thất bại như dự đoán của Chính trị bộ chủ nhiệm Trần Xuân Độ. Không ảo tưởng và khoan nhượng với kẻ thù là vấn đề có tính nguyên tắc trong nhận thức và hành xử của ông.

Lần thứ ba vào năm 1995, khi tôi tham gia nhóm nghiên cứu biên soạn công trình Lịch sử Đảng bộ miền Đông Nam Bộ lãnh đạo kháng chiến (1945-1975). Ban Chỉ đạo công trình mời ông Trần Xuân Độ tham gia một số cuộc tọa đàm tư liệu tại Đồng Nai và Bà Rịa-Vũng Tàu. Ông đã ngoài 100 tuổi nhưng vẫn đi lại hoạt bát, nghiêm ngắn và nụ cười đôn hậu thường trực. Ông kể cho tôi nghe tình hình Đảng bộ Nam Bộ nói chung và Đảng bộ tỉnh Bà Rịa nói riêng trong những tháng đầu kháng chiến.

Ngày 15-10-1945, Xứ ủy Nam Bộ tổ chức hội nghị (tại Cầu Vĩ-Mỹ Tho) quyết nghị giải thể hai Xứ ủy Tiền phong và Giải phóng để thành lập một Xứ ủy Nam Bộ thống nhất. Tiếp đó, ngày 25-10-1945, tại Thiên Hộ (xã Hậu Mỹ, huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho), Xứ ủy Nam Bộ họp mở rộng chủ trương tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức Đảng và chính quyền các cấp; củng cố và xây dựng các lực lượng chính trị; xây dựng LLVT; thành lập ủy ban kháng chiến và tổ chức các quân khu.

Ông Trần Xuân Độ được Xứ ủy điều về phụ trách công tác Đảng ở tỉnh Bà Rịa. Bấy giờ tỉnh Bà Rịa chưa thành lập Tỉnh ủy. Ông đã cùng các đồng chí như: Nguyễn Tấn Phúc, Hồ Tri Tân, Trần Ánh Sáng… tập hợp các đảng viên cũ và một số cán bộ cốt cán ở địa phương, phân công nắm giữ các cương vị chủ chốt của chính quyền và lực lượng vũ trang. Đến tháng 4-1947, Tỉnh ủy Bà Rịa lâm thời mới được thành lập do đồng chí Nguyễn Kế Hoa làm Bí thư.

Đã có nhiều bài viết ca ngợi Trần Xuân Độ, gắn cho ông một số chức vụ quan trọng của Đảng. Trong những lần kể chuyện với tôi, ông luôn đính chính, phủ nhận các chức vụ ấy. Trong lần gặp mặt truyền thống của Chi đội 16-Bà Rịa, ông đứng dậy phát biểu: Ông chưa bao giờ là Bí thư Tỉnh ủy của Bà Rịa, cũng chưa làm Chính trị viên Chi đội 16 như nhiều người vẫn suy tôn. Ông chỉ là một cán bộ Đảng của Bà Rịa. Làm việc đến kiệt cùng sức lực, nhưng thành tích và vinh dự, ông nhường cho người khác. Đó là nhân cách Trần Xuân Độ!


PGS, TS HỒ SƠN ĐÀI