QĐND - "Tôi vẫn nhớ như in hình ảnh cha oai phong trên yên ngựa chỉ huy lực lượng dân vệ binh tiến vào giành chính quyền tại thành phố Huế sáng 23-8-1945. Có ai ngờ một ông quản khố đỏ trốn việc bắt lính về quê mở lò gạch kiếm sống lại là chỉ huy một đội quân cách mạng”-ông Trần Quốc Phong, con trai của cụ Trần Gia Hội, cán bộ lão thành cách mạng, nguyên Trưởng phòng Doanh trại, Cục Hậu cần, Bộ đội Biên phòng đầy tự hào khi bắt đầu câu chuyện với chúng tôi về cha mình.
Cụ Trần Gia Hội sinh ngày 2-8-1899 tại làng An Phú, xã Hương Vinh, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên (cũ), nay là tỉnh Thừa Thiên-Huế, trong một gia đình nhà nho nghèo. Năm 1925, cụ bị bắt đi lính khố đỏ và phải hai lần đi lính sang Pháp chiến đấu chống phát xít Đức. “Đó là khoảng thời gian cay đắng nhất trong đời cha tôi vì phải phục vụ cho đế quốc nhưng cũng nhờ đó cụ mới thấm thía nỗi khốn cùng của người dân mất nước. Cụ đọc được tờ báo Việt Nam Hồn tại Pháp rồi giác ngộ cách mạng, cụ tìm cách bắt liên lạc và tham gia hoạt động trong tổ chức Binh hội cứu quốc”-ông Phong kể lại.
 |
Thiếu tá Trần Gia Hội (ảnh chụp năm 1960) khi là Trưởng phòng Doanh trại, Cục Hậu cần, Công an vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng). Ảnh do gia đình nhân vật cung cấp.
|
Sau này, quá bất mãn trước thủ đoạn cai trị của chính quyền thực dân, cụ Trần Gia Hội tìm mọi cách để chúng thải hồi. Về quê, cụ mở lò gạch rồi tổ chức đấu ruộng cho thuê như một người chủ gia đình kiếm sống nuôi vợ con. Cả nhà ông Phong tuyệt nhiên không ai biết cụ Trần Gia Hội đang đi theo một lý tưởng khác. Chỉ đến đêm 22, rạng sáng 23-8-1945, khi nhìn thấy cụ oai phong cưỡi ngựa trực tiếp chỉ huy một đội dân vệ binh giành chính quyền ở hai đồn Thừa Thiên và Khâm Sứ-Huế, cả nhà ông mới vỡ lẽ, không hiểu cụ làm cách mạng từ bao giờ.
Khi thành lập Giải phóng quân Thừa Thiên, cụ Hội được cử làm Chi đội trưởng Chi đội Trần Cao Vân, sau phát triển thành Trung đoàn Trần Cao Vân. Ở thời điểm ấy, cụ là một trong những cán bộ quân sự có năng lực chỉ huy chiến đấu, nơi nào chiến sự khó khăn thường được cấp trên phái đến. Và cái tên “tướng rơm ớt” người ta dành cho cụ cũng xuất phát từ một trận đánh nổi tiếng tại Khách sạn Mô-ranh (Morin) cuối năm 1946, khi quân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta.
Rạng sáng 20-12-1946, theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Huế cùng cả nước nổ súng kháng chiến và nhanh chóng giành thế chủ động bằng cuộc vây hãm địch trong thành phố. Cụ Hội được phân công làm Chỉ huy trưởng khu B đánh địch từ cầu Tràng Tiền đến cầu An Cựu, là khu hỏa lực địch mạnh, chiến sự diễn ra rất ác liệt. Còn ông Trần Quốc Phong lúc đó tròn 18 tuổi và đang làm thư ký ủy ban hành chính kháng chiến cũng theo sát bước chân của cha. Tại Khách sạn Mô-ranh, quân ta chiếm giữ tầng dưới, địch cố thủ ở tầng trên tập trung hỏa lực kiềm chế cầu thang, giằng co với ta rất quyết liệt. Lúc này, đồng chí Trần Hữu Dực, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Trung Bộ đến thăm, động viên chiến sĩ và gợi ý bó rơm lại làm vật cản để tấn công lên cầu thang. Ông Phong kể: “Lúc ấy, cha tôi nghĩ ngay đến việc nếu đạn của địch bắn vào rơm sẽ bốc cháy, liền nảy ra ý là trộn ớt vào rơm đốt xông lên trong lúc điện nước đã bị cắt. Địch bị nung nóng, cay ngạt sẽ gặp khó khăn trong chiến đấu cũng như liên lạc”.
Và thế là hàng trăm thùng ớt, hàng ngàn gánh rơm được huy động từ các làng quê chở đến khu B. Cụ Hội tổ chức chiến đấu kết hợp với xông rơm ớt tấn công vào nhiều vị trí địch. Rơm ớt cháy hằng giờ, hằng ngày dưới chân cầu thang, quanh các vị trí cố thủ của địch, làm chúng bị nung nóng, hắt hơi, chảy nước mắt nước mũi phải co cụm lại, tạo thuận lợi cho quân ta giữ vững trận địa bao vây, liên tục tấn công, tiêu diệt dần bọn chúng. Quân Pháp thiếu thức ăn, nước uống, đạn dược, thuốc men… phải dùng máy bay thả dù tiếp tế cho đồng bọn.
Cuộc vây hãm địch ở Huế kéo dài được gần một tháng, sang đầu năm 1947, Pháp dùng viện binh Âu-Phi đổ bộ đường biển ở phía Nam Thừa Thiên chia làm nhiều hướng, kết hợp nhảy dù và hỏa lực phi pháo với quy mô lớn tiến vào Huế giải vây. Bộ phận chặn viện của ta ở Lăng Cô-Thừa Lưu là Tiểu đoàn 18 gặp khó khăn, cấp trên lại điều cụ Hội vào cầm quân chặn viện binh địch. Dù lực lượng địch đông, hỏa lực mạnh, ta chỉ còn hai đại đội Giải phóng quân và một trung đội tự vệ, vũ khí thô sơ, nhưng dưới sự chỉ huy khôn khéo linh hoạt của cụ Hội, cộng với tinh thần chiến đấu anh dũng kiên cường của chiến sĩ, ta đã cầm cự được thêm 19 ngày nữa, làm chậm bước tiến và gây cho địch nhiều thương vong. Không đủ sức đối phó với viện binh mạnh của địch, sau 50 ngày đêm vây hãm quân Pháp ở Huế, cụ Hội cùng các lực lượng rút lên vùng rừng núi Hòa Mỹ (Tây Bắc TP Huế) lập chiến khu tiếp tục cùng cả nước kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tháng 10-1975, cụ trở về quê hương Thừa Thiên-Huế, mặc dù đã ở tuổi xưa nay hiếm, cụ vẫn nhiệt tình gánh vác 3 nhiệm kỳ bí thư chi bộ và một nhiệm kỳ Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc phường cho đến tuổi 84 mới nghỉ công tác. “Cha tôi sống rất gần gũi và tình cảm nên rất được mọi người kính trọng. Gặp cụ, ai cũng chào là bố Hội. Mỗi dịp Tết đến, không ai bảo ai nhưng đều đến nhà chúc thọ cụ. Ngày cụ mất, bà con đến đưa tiễn kín cả khu phố”-ông Phong tự hào nói.
SONG THANH - PHONG TRẦN