QĐND - Đứng trên bậc thềm trước cửa chính của dinh Độc Lập, Tư lệnh Quân đoàn 2 Nguyễn Hữu An ôm đồng chí Phạm Xuân Thệ, Trung đoàn phó Trung đoàn 66 khóc, nước mắt giàn giụa. Những giọt nước mắt của một vị tướng đã qua hai cuộc trường chinh vĩ đại thật là xúc động. Đó là lần duy nhất trong đời tôi nhìn thấy anh khóc...
 |
Tư lệnh Nguyễn Hữu An trao cờ cho Lữ đoàn xe tăng 203 và giao nhiệm vụ cho lực lượng thọc sâu đánh vào nội đô Sài Gòn trong Chiến dịch Hồ Chí Minh. Ảnh tư liệu. |
Năm 1972, anh Nguyễn Hữu An từ Bộ Tổng tham mưu vào chiến trường Trị Thiên đảm nhiệm chức Tham mưu trưởng Mặt trận B5 với quân hàm đại tá. Tôi gặp anh lần đầu trong buổi giao ban của Mặt trận. Lúc đó, tôi làm ở tờ báo Tiền tuyến, đúng ra đó là tờ phụ trương của Báo Quân đội nhân dân ở mặt trận lúc bấy giờ. Anh cầm tờ báo được in trước đó 7 ngày trong tay và đến gặp tôi. Câu đầu anh hỏi:
- Cậu là Vũ Thuộc hả?
- Vâng. Tôi đây, anh ạ!
- Cậu vào chiến trường được mấy năm rồi?
- Dạ, từ thời “Cồn Tiên”, “Dốc Miếu”, năm 1965 ạ!
- Cậu từ Báo Quân đội nhân dân vào, hay...?
- Không, tôi từ đơn vị lên. Tôi là sĩ quan pháo binh thuộc Đoàn 164 Pháo binh.
- Hay lắm! Thảo nào mấy bài cậu viết trong số báo này về pháo binh đánh Cửa Việt, Tân Lâm và pháo kích căn cứ 241 rất giỏi.
- Thưa đồng chí Tham mưu trưởng, đó là “bệnh nghề nghiệp” ạ!
Một loạt bom tọa độ nổ phía ngầm Tà Cơn làm lung lay căn hầm, đất rơi xuống tấm bản đồ tác chiến ở trên mặt bàn. Anh cầm tờ báo phủi bụi đất và nói như tâm sự:
- Mấy ngày nay nó đánh cái ngầm này suốt, mùa mưa lại sắp đến, giao thông cũng kẹt lắm đây. Cậu có bận không? Tổ chức ra ngầm xem một chút.
- Vâng.
Thế là anh em chúng tôi xách túi ra đi.
Tác phong chỉ huy của anh là vậy. Tính anh rất thích cụ thể và chính xác. Anh rất ít đọc báo cáo, ít gọi điện thoại mà thường trực tiếp đến kiểm tra, xem xét và có phương án xử lý ngay tại hiện trường. Làm việc với anh, cán bộ cấp dưới rất yên tâm, tin tưởng và tự thấy phải có trách nhiệm cao. Sau này, mỗi lần xuống đơn vị trực tiếp chỉ huy trận đánh, anh đều gọi tôi cùng đi. Tôi viết tường thuật thường đọc cho anh nghe và xin ý kiến anh đóng góp bài viết của mình. Qua sự góp ý của anh, tôi nhận ra một điều là anh luôn quan tâm đến ý nghĩa hơn là kết quả cụ thể của từng trận đánh.
Năm 1975, anh đảm nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 2 (Binh đoàn Hương Giang). Tại sao Quân đoàn 2 lại gọi là Binh đoàn Hương Giang? Tên gọi này có sự tích lịch sử của nó. Quân đoàn 2 được thành lập ngày 1-6-1974, tại thượng nguồn dòng Hương Giang. Đất Thừa Thiên-Huế nhiều núi và lắm sông. Dòng Hương Giang là con sông chính chảy giữa miền đất đẹp và thơ mộng, nhưng lúc đó cũng rất ác liệt. Biết bao đồng đội chúng tôi đã đổ máu xuống dòng sông này. Hương Giang, chính là cái nôi đã nâng đỡ và nuôi nấng quân đoàn.
Đầu năm 1975, tuy mới thành lập được từ 7 đến 8 tháng, quân đoàn đã tiến vào “Mùa xuân đại thắng”. Quân đoàn làm nhiệm vụ nghi binh đánh lạc hướng tấn công chính của ta là Mặt trận Buôn Ma Thuột. Sở chỉ huy của Quân đoàn đặt ở Động Truồi, cách thành phố Huế 18km về hướng nam.
Ngày 18-3-1975, quân đoàn nổ súng tấn công 2 liên đoàn biệt động quân ở phía tây thành phố Huế. Sau 5 ngày quần nhau với địch không có xe tăng và pháo binh yểm trợ, lực lượng ta bị thương vong lớn. Hai sư đoàn (325 và 304) đều xin rút ra để củng cố. Trước tình hình đó, anh An với trách nhiệm là Tư lệnh Quân đoàn rất đau xót. Trong buổi giao ban tác chiến của quân đoàn, anh ngồi lặng im nghe các đơn vị báo cáo. Sắc mặt anh đanh lại, chưa bao giờ tôi thấy anh nghiêm khắc đến lạnh lùng như lúc ấy. Anh nói chậm từng tiếng một: “Đánh với 2 liên đoàn biệt động quân, ta đã mất gần nửa lực lượng của quân đoàn. Điều này không thể chấp nhận được, các Sư đoàn 304, 325 không được rút ra. Chiến dịch lớn mới bắt đầu mà kết quả thật đáng buồn. Ngay đêm nay, 2 sư đoàn về tổ chức lấy 2 trung đoàn mạnh. Tôi trực tiếp chỉ huy, tiếp tục tấn công!”.
Thượng tướng Nguyễn Hữu An (1926 - 1995), quê xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Suốt 50 năm quân ngũ, ông đã tham gia trọn vẹn ba cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, trưởng thành từ chiến sĩ lên đến quyền Tư lệnh Quân khu, Giám đốc Học viện Quốc phòng với quân hàm Thượng tướng, phó giáo sư khoa học quân sự. Ông “là một trong những vị “tướng trận mạc” lăn lộn khắp các chiến trường. Đồng chí thường được giao những nhiệm vụ khó khăn, trong những tình huống hết sức phức tạp, khẩn trương… Nguyễn Hữu An là một nhà chỉ huy quân sự quyết đoán và mưu lược” (lời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp). Năm 2014, Thượng tướng Nguyễn Hữu An được truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân.
|
Đêm đó, chúng tôi cùng anh đi xuống từng đơn vị, tổ chức và động viên bộ đội cho trận đánh quyết định vào rạng sáng ngày 24-3-1975.
Một chi đội xe tăng 6 chiếc và 2 tiểu đoàn pháo binh yểm trợ cho 2 trung đoàn bộ binh tăng cường, sau một giờ tiến công, 4 liên đoàn biệt động quân của địch đã bị tiêu diệt. Thừa thắng xông lên, vẫn 6 chiếc xe tăng T54 ấy, vẫn lực lượng bộ binh ấy, có người bị thương và đất cát đầy mình, dưới sự chỉ huy của anh đã tiến vào giải phóng thành phố Huế. Mờ sáng ngày 26-3, lá cờ chiến thắng của chúng ta đã tung bay trên đỉnh cột cờ thành nội Huế.
Từ Huế, với sức mạnh thần tốc, quân đoàn đã tiến vào giải phóng Đà Nẵng, đánh dọc Quốc lộ 1, bắt sống tướng Nguyễn Vĩnh Nghi ở tuyến phòng thủ Phan Rang. Và cứ thế, quân đoàn tiến thẳng vào Sài Gòn, cắm cờ lên nóc dinh Độc Lập của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, bắt sống toàn bộ chính phủ của Dương Văn Minh.
Trong một tháng bốn ngày, từ 26-3 đến 30-4, với cương vị vừa là cán bộ tuyên huấn, vừa là phóng viên, tôi luôn ở gần anh, ghi chép những chỉ thị, mệnh lệnh của anh, ghi chép những chiến công của các đơn vị và những giờ phút lịch sử giải phóng các thị xã, thành phố trên dọc Quốc lộ 1. Tấm bản đồ tác chiến, một bình tông nước, một ống nhòm và một túi lương khô 702 anh luôn đeo bên mình. Khi chỉ huy trận đánh cầu Rạch Chiếc, anh ngồi ngay cạnh lộ, dưới gốc cây xà cừ, cách địch chưa đầy 1km để chỉ huy bộ đội tấn công. Đánh xong ổ đề kháng cuối cùng này, anh nhảy lên chiếc com-măng-ca đầy bụi, tiến sau xe tăng và mấy chiếc xe chở lính bộ binh vào giải phóng Sài Gòn.
VŨ THUỘC (kể)
TRẦN HOÀNG (ghi)