QĐND - Nhắc đến Đô đốc Giáp Văn Cương, cán bộ, chiến sĩ hải quân sẽ chẳng bao giờ quên hình ảnh vị Tư lệnh với bộ quân phục bạc màu, đầu đội mũ cối, quần xắn quá đầu gối, da sạm đen vì nắng gió, lội hết bãi cạn này đến bãi cạn khác ở quần đảo Trường Sa kiểm tra, chỉ đạo xây dựng nhà cao chân rồi đến lô cốt, nhà lâu bền… Trên những chuyến tàu dọc ngang trên biển, các sĩ quan, thủy thủ cùng thời đã truyền nhau hình ảnh khi hoàng hôn buông xuống, vị Tư lệnh trầm tư trên boong, mắt hướng về xa xăm đau đáu khát vọng…

Vị tướng của Trường Sa

Tôi gặp Thiếu tướng Nguyễn Văn Ninh, nguyên Phó cục trưởng Cục Tác chiến, Bộ Tổng tham mưu, trong một chiều cuối thu Hà Nội. Nhiều năm trong quân ngũ, Thiếu tướng Nguyễn Văn Ninh làm việc “trên Bộ” nhưng lại được giao nhiệm vụ theo dõi hướng biển nên ông hiểu tường tận về biển, đảo. Khoảng thời gian từ 1977 cho đến 1990, ông đã nhiều lần cùng với Tư lệnh Hải quân Giáp Văn Cương đi thị sát Trường Sa. Và mỗi chuyến đi ấy đã để lại trong ông những ấn tượng về vị “Tư lệnh của biển”.

Tư lệnh Giáp Văn Cương (áo trắng, đội mũ cứng) kiểm tra huấn luyện SSCĐ trên đảo Trường Sa năm 1978. Ảnh tư liệu.

Thiếu tướng Nguyễn Văn Ninh kể: Tư lệnh Giáp Văn Cương là một nhà quân sự trí dũng song toàn. Mặc dù không được đào tạo hải quân nhưng ông nắm hải quân rất nhanh, vận dụng tài tình nghệ thuật đánh nghi binh trên chiến trường vào hoạt động trên biển. Khi ra đảo, ông thường quan sát xung quanh rồi hỏi cán bộ, chiến sĩ: “Cho các cậu nói, kẻ địch muốn chiếm đảo này thì sẽ đánh như thế nào?”. Khi bộ đội phát biểu ý kiến xong, Tư lệnh hỏi tiếp: “Nếu quân địch đổ bộ lên chiếm đảo, các cậu sẽ đánh như thế nào để giữ được đảo?”. Và câu cuối ông hỏi: “Cuộc sống của các cậu thế nào? Có khó khăn quá không?”. Nghe vậy, cánh lính đảo “tếu táo” trả lời: “Chúng con vất vả lắm bố ơi!”. Tư lệnh cười khà khà, nói: “Được! Từ từ rồi chúng ta sẽ cùng giải quyết”... Trước khi rời đảo, ông cũng hay viết ra toàn bộ ý kiến của mình về cách giữ đảo để cán bộ, chiến sĩ vận dụng. Cho đến nay, kinh nghiệm giữ đảo của ông vẫn còn nguyên giá trị.

Năm 1988, trước diễn biến phức tạp ở Trường Sa, Tư lệnh Giáp Văn Cương đã rất nhanh nhạy, ông quyết đối phó để chủ động giữ đảo. Vào đúng dịp Tết Nguyên đán năm ấy, Tư lệnh Giáp Văn Cương tuyên bố: Không có Tết, tất cả cơ quan Bộ tư lệnh Hải quân báo động, di chuyển vào Sở chỉ huy tiền phương Cam Ranh. Ông ra lệnh: Huy động toàn bộ lực lượng ra giữ đảo, tất cả tàu to, tàu nhỏ, tàu đánh cá ra đứng chân trên các đảo cùng một lúc trên nhiều điểm, nhiều đảo xa bờ. Phải dồn toàn bộ lực lượng để giữ đảo, chở đá, cát, xi măng khẩn trương xây đảo. Phải xây dựng các đảo thành những chiến hạm không thể bắn chìm…

Thềm lục địa là sân của ngôi nhà

Một lần đi thị sát trên quần đảo Trường Sa, Tư lệnh Giáp Văn Cương dừng chân tại đảo Tiên Nữ. Ông hài lòng với công việc đang triển khai xây dựng trên đảo, nhưng vẫn đau đáu trăn trở về một vùng biển rộng lớn trên thềm lục địa phía Nam. Trong lúc nghỉ ngơi, Tư lệnh mở tấm hải đồ ra xem rồi gọi các kỹ sư hàng hải, đo đạc và một số chỉ huy đơn vị lên hỏi: Các đồng chí xem có cách nào để ta đứng chân trên vùng thềm lục địa phía Nam không? Nói rồi ông chụp cả bàn tay lên vùng biển ấy. Ông đang đăm chiêu suy nghĩ thì một kỹ sư đo đạc biển liền nói: Khu vực này có những bãi san hô ngầm chìm dưới mặt nước khoảng 15 đến 25m, có thể làm nhà cao chân! Nghe vậy, ánh mắt ông sáng lên. Đúng. Phải đi khảo sát ngay. Nếu ví đất liền là nhà thì thềm lục địa là sân. Ai muốn vào nhà thì phải qua sân, qua thềm. Khu vực thềm lục địa phía Nam là sân, là thềm của căn nhà Việt Nam. Chúng ta phải quyết tâm đóng giữ thật vững chắc nơi đây.

Một góc đảo Trường Sa Lớn nhìn từ trên cao. Ảnh: Thảo Nguyên.

Đại tá Vũ Mạnh Hiền, nguyên quyền Tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân, nhận xét: Việc triển khai lực lượng ra đóng giữ trên thềm lục địa phía Nam là ý tưởng sáng tạo và táo bạo của Đô đốc Giáp Văn Cương, là đỉnh cao của “chiến lược phòng thủ biển”. Nhiều năm trước, Tư lệnh Giáp Văn Cương đã dự báo: Trong tương lai gần, vùng biển khu vực Trường Sa không được bình yên. Vì thế, việc xây dựng các nhà giàn trên các bãi san hô ngầm là một tất yếu.

Đề xuất xây dựng nhà giàn (gọi tắt là DK1) bảo vệ thềm lục địa phía Nam của Tư lệnh Giáp Văn Cương ngay lập tức được Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng ủng hộ. Chính phủ trực tiếp giao nhiệm vụ thiết kế, thi công công trình DK1 cho 3 đơn vị: Bộ Giao thông vận tải, Tổng công ty Dầu khí và Bộ tư lệnh Công binh. Sau này, nhiệm vụ thiết kế, xây dựng DK1 giao hẳn cho Binh chủng Công binh chủ trì. Chỉ trong mùa biển lặng năm 1989, bốn công trình DK1 đầu tiên đã xuất hiện trên thềm lục địa, hiên ngang giữa trùng khơi. Lực lượng ra chốt giữ, canh gác là cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn DK1, thuộc Lữ đoàn 171 Hải quân, nay thuộc Bộ tư lệnh Vùng 2 Hải quân. Sau nhiều năm cải tạo, sửa chữa, nâng cấp, những nhà giàn kiên cố, vững chắc đã mọc lên án ngữ một vùng biển rộng lớn của nước ta. Nơi đây được ví như “cột mốc chủ quyền”, “mắt thần trên biển”, “chốt tiền tiêu”, “làng trên biển”, “điểm tựa của bà con ngư dân”…

Giúp Cam-pu-chia giải phóng

Sẽ là thiếu sót khi nói về Đô đốc Giáp Văn Cương mà không nhắc tới việc ông nhận mệnh lệnh từ Bộ Quốc phòng, trực tiếp chỉ huy lực lượng Hải quân tham gia giúp Cam-pu-chia giải phóng trên hướng biển. Đó là vào năm 1979, mặc dù tình hình biển, đảo của Việt Nam còn bộn bề khó khăn nhưng đúng 9 giờ ngày 12-1, Tư lệnh Giáp Văn Cương đã nhận mệnh lệnh: Chuẩn bị lực lượng tiếp tục giải phóng thị xã Cô-công, đảo Cô-công, Pô-lô-vai, Cô-tang, góp phần giúp bạn thoát khỏi họa diệt chủng Pôn Pốt. Ngay chiều 14-1, theo lệnh ông, lực lượng Quân chủng Hải quân đã chuyển xuống tàu tiến thẳng đến cảng Công-pông-xom (Cam-pu-chia).

Sau gần hai ngày vượt biển, toàn bộ đội hình chiến đấu của hải quân đã đến vùng biển Cô-công. Tư lệnh Giáp Văn Cương chỉ huy các tàu hình thành thế bao vây từ Bắc xuống Nam bán đảo. Trời sáng rõ, các tàu của ta tiến vào bãi đổ bộ. Pháo binh địch bắt đầu bắn ra. Mặt biển Cô-công ầm ầm tiếng súng. Lực lượng không quân của ta giội bom xuống các khu vực phòng ngự của địch. Lúc này, Tư lệnh Giáp Văn Cương chỉ huy tàu chiến, pháo kích vào bờ, quân ta đè bẹp sự chống cự của địch. Trưa 16-1, lệnh đổ bộ được phát ra, các tàu đổ bộ vừa tiến, vừa bắn lên phía trước. Ông lệnh cho cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn Hải quân đánh bộ 101 xông lên tấn công vào các chốt của địch, thực hiện tốt nhiệm vụ mở cửa đánh chiếm đầu cầu.

Nhân lúc địch hoang mang, lo sợ, Tư lệnh Giáp Văn Cương quyết định sử dụng lực lượng mở cuộc tấn công mới, nhanh chóng tiêu diệt lực lượng biên phòng của địch, chiếm thị xã Cô-công. Với sức mạnh như vũ bão của cánh quân trên hướng biển, chỉ 2 tiếng đồng hồ sau, ta chiếm được điểm cao 118, sau đó tiến mạnh vào thị xã, xung phong chiếm điểm cao 49 và các căn cứ công sở của địch, giải phóng hoàn toàn thị xã Cô-công.

Thừa thắng, Tư lệnh Giáp Văn Cương chỉ huy lực lượng Hải quân mưu trí, dũng cảm tiếp tục chiến đấu giúp bạn giải phóng được các hòn đảo thuộc chủ quyền và giải phóng thành phố cảng Xi-ha-núc-vin, tỉnh Công-pông-xom, sau này ta bàn giao đầy đủ lại cho nước bạn.

CẨM THỦY