Gia cảnh cơ hàn
Làng Cổ Bái, xã Nghi Phúc (từ năm 1970, hai xã Nghi Phúc, Nghi Thọ sáp nhập thành xã Phúc Thọ), huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An là cố hương của PGS, TSKH Nguyễn Hữu Đức (13-8-1948/7-6-2007). Anh xuất thân trong một gia đình cố nông, thân phụ là ông Nguyễn Hữu Đèo (1905-1982), thân mẫu là bà Chu Thị Đườm (1920-1982) bị mù lòa từ nhỏ, mất khả năng lao động suốt đời. Nguyễn Hữu Đức là con thứ hai trong 5 người con của gia đình. Cách đây hơn 4 năm, khi các phương tiện truyền thông đưa tin, PGS, TSKH Nguyễn Hữu Đức, Hiệu trưởng Trường Đại học Đà Lạt từ trần vì bạo bệnh, hưởng dương 60 tuổi, mấy hôm sau từ cố hương xã Phúc Thọ, các bậc cao niên trong xã “ôn cổ tri tân” về “sự nghèo ngoại hạng” của nhà ông Đèo từ nửa thế kỷ trước.
Từ nhỏ đã phải đi ở kiếm sống, sau khi xây dựng gia đình, ông Đèo vẫn không thoát nổi kiếp cày thuê, cuốc mướn. Trong cải cách ruộng đất, gia đình ông được chia ba sào ruộng cát pha. Ngần ấy đất canh tác và “nghề” cuốc mướn cũng không đủ sống, lên bốn, năm tuổi, các con ông đã biết làm thuê mót hái, riêng bé Đức sớm theo cha vác cưa đi khắp xã, khắp vùng, gặp ai thuê đốn cây, xẻ gỗ, đóng mới, sửa cũ cối xay lúa, bố con ông lại còng lưng bán sức bọt bèo.
Là tộc trưởng Chi họ Nguyễn Hữu tại xã Nghi Phúc nên ông Đèo có phận sự coi sóc quản lý Nhà thờ Chi họ. Vì lâu nay gia đình ông không có nổi một túp lều tranh như các gia đình cố nông trong làng, bà con nội tộc đồng ý để ông tận dụng phía ngoài bờ tường Nhà thờ, chôn mấy cột tre, gác rui mè vào mép bờ tường tạo nên bộ khung “nhà”. Chái lợp tranh lá mía, không có nứa đan phên ông kết tranh lá mía buộc làm phên thưng che chắn gió, nhưng do vị trí của 3 xã Nghi Phúc, Nghi Thái, Nghi Thọ xưa nay ở nơi đầu sóng mũi gió, hằng năm phải hứng chịu nhiều trận bão biển, cho nên “nhà” ông chỉ đủ che nắng khi trời yên biển lặng, khi bão tố đổ vào thì ông cùng các con phải dìu mẹ mù sơ tán nhà hàng xóm.
Những năm 1960, 1961 tôi học vỡ lòng, trên đường đi học về rủ lũ trẻ làng tò mò vào nhà ông Đèo để trực tiếp mắt thấy tay sờ, mới biết, mới ngấm cái sự nghèo cùng đinh là như thế. Vậy mà nay nghe cao niên xã Phúc Thọ kể về cái nghèo của nhà ông, các trai thanh, gái tú thế hệ 7X, 8X, 9X cứ một mực cho là cha chú tài “bịa”. Ngay như các hộ nghèo thời nay cũng khó tin nổi cái nghèo của nhà ông Đèo ngày ấy, nghèo tới mức trong nhà không có nổi chiếc giường tre, mùa rét cũng như mùa nóng vẫn một ổ rơm lù lù giữa nhà. Chiếc “giường” ấy quanh năm ngự trên nền nhà đắp bằng thứ đất thịt pha cát, vài mảnh chiếu rách thay chăn, toàn bộ đám người nhà ông chen chúc trong ổ rơm - “giường” không có chân ấy. Và chiếc “giường” có một không hai cũng là vật dùng duy nhất có giá trị sử dụng thiết thực thường xuyên, cạnh “giường” còn có đống tro bếp lù lù đầy ụ làm bạn. Đống tro phủ kín kiềng sắt đã bị gãy mất một chân, ông Đèo dùng viên gạch vỡ trám thay cho cái chân bị gãy, mấy chiếc niêu đất cái sứt cái mẻ, cái nghiêng cái ngửa nom tội nghiệp.
 |
PGS, TSKH Nguyễn Hữu Đức. Ảnh gia đình cung cấp |
Lay lắt trong gia cảnh bần hàn, ngày hai buổi Đức cùng bố và chị gái lội hết kỳ này cồn nọ, trong xã trong vùng, mót lúa mót khoai, gánh thuê cuốc mướn mà vẫn không nổi manh áo bát cơm.
Ý chí xây nên sự nghiệp
Nhìn bạn bè cùng lứa cùng làng đã học lên lớp 2, lớp 3, nhiều bữa Đức phải lén khóc. Nước mắt tuổi thơ vô tư trong trẻo cũng chỉ một mình mình biết, một mình mình hay, từ ngày ấy Đức đã hiểu nước mắt không thể cứu giúp cảnh đời thoát khỏi vòng kim cô đói khổ. Buồn, chỉ buồn thôi, thay vì oán trách nước mắt, Đức “chuột nhắt” âm thầm nuôi dưỡng ý chí, trui rèn, khổ luyện, xem vượt khổ vượt khó cũng là thứ sức mạnh phi vật chất, là bảo bối tiếp thêm nghị lực để con nhà khó bứt phá trên đường đời. Những lúc rảnh rang, Đức dùng que viết lên mặt sân, dùng mẩu gạch non viết lên bờ tường những chữ cái, những con số tự nhiên cậu học lỏm bạn làng. Dù chưa đến trường Đức cũng cộng, trừ, nhân, chia thành thạo 4 phép tính. Năm học 1959-1960 bấy giờ, Đức đã 11, 12 tuổi, thương con, ông Đèo khai cho Đức tụt bớt hai tuổi để được nhà trường nhận vào học lớp 1 và trong suốt cuộc đời cơ cực của ông, đó là lần duy nhất ông Đèo không thật thà. Đó cũng là nguyên nhân để trong Hồ sơ lý lịch sau này, PGS, TSKH Nguyễn Hữu Đức vẫn phải ghi sinh ngày 13-8-1950.
Bốn năm học cấp 1, anh liên tục đạt kết quả xuất sắc, tổng kết các môn đều đạt điểm 10, thoảng mới “bị” một vài điểm 9. Sau khi anh lên học cấp 2, những cuốn vở bài tập, những tập bài kiểm tra, tập bài thi môn Toán trong suốt 4 năm cấp 1 của anh đều đạt điểm tuyệt đối 10/10, vẫn được Ban giám hiệu trường cấp 1 xã Nghi Phúc bảo quản trưng bày tại phòng truyền thống, để cho lứa đàn em chúng tôi mắt thấy, tay sờ kỷ vật thiêng liêng của anh đã thành biểu tượng về ý chí nghị lực, đã thành thông điệp sinh động: Khó khăn gian khổ chỉ có thể làm chậm bước tiến, chứ không thể ngăn cản nổi những tài năng vươn tới ước mơ.
Thời ấy, xã Nghi Phúc chưa có trường cấp 2, hằng ngày anh cuốc bộ sang học trường cấp 2 xã Nghi Phong cách nhà khoảng 6 cây số. Ba năm theo học tại đây, Đức liên tục đạt kết quả xuất sắc toàn diện, riêng hai môn Toán, Lý dường như không có đối thủ. Anh đoạt danh hiệu học sinh giỏi cụm, huyện, tỉnh về Toán lớp 7. Ngày đó, những học sinh đoạt giỏi cấp tỉnh về đều được Ty giáo dục Nghệ An đặc cách triệu tập đi học lớp chuyên Toán của tỉnh nhằm gây ươm các hạt giống tốt, chuẩn bị nguồn lực cho công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh. Những học trò vinh dự vào các lớp chuyên Toán, chuyên Văn được Nhà nước đài thọ toàn bộ chi phí ba năm ăn học, miễn đi bộ đội và hầu hết đủ điều kiện du học nước ngoài.
Tôi còn nhớ chiều hè ấy, Đức đang cùng bố mồ hôi nhễ nhại còng lưng kéo cưa xẻ gỗ cho một gia chủ trong làng, bỗng nhân viên Bưu điện xã tìm đến giao cho Đức cái “trát đòi” do Trưởng Ty giáo dục Nghệ An Nguyễn Tài Đại ký, về việc đặc cách triệu tập Nguyễn Hữu Đức vào học lớp chuyên Toán của tỉnh đặt tại huyện Thanh Chương. Trát ghi rõ, thời gian học ba năm, khi đi mang theo hai bộ quần áo, một chiếc chăn chiên, một chiếc màn một, 30 cân gạo, 15 đồng. Nghe con đọc nội dung “trát đòi”, ông Đèo vò đầu bứt tai vì từ trước đến nay nhà ông nằm mơ cũng không có nổi chừng ấy:
- Mai con cứ đi người không lên Ty làm thủ tục, nếu Ty không chấp nhận thì về.
Tủi phận phải làm cho con cụt hứng, nhưng trong thâm tâm ông Đèo vẫn còn nước còn tát. Chập tối ông cầm “trát” đến nhà ông Nguyễn Hữu Kỷ (1928-2005) đại biểu HĐND xã, Bí thư Chi bộ kiêm Chủ nhiệm HTX Ngư Phong làm nghề đánh cá biển của xã:
Chú coi, Ty gọi thằng Đức đi học, lại yêu cầu phải mang ngần ấy thứ, nhà tui kiếm mô ra!
Ông Kỷ xem “trát” bảo:
- Bác chờ để mai tui gặp nói với các anh lãnh đạo Đảng ủy, Ủy ban xã xem sao.
Chẳng biết ông Kỷ nói thế nào, chiều hôm sau Chủ tịch Ủy ban hành chính xã ra chỉ thị phân công: HTX nông nghiệp xuất kho 1 tạ lúa, cử mấy người xay tay lấy gạo cho Đức mang 30 cân, hơn một nửa số gạo còn lại tặng nhà ông Đèo. HTX đánh cá Ngư Phong xuất quỹ 20 đồng, giao cho Đức 15 đồng, tặng gia đình ông Đèo 5 đồng. Cửa hàng mậu dịch xã xuất kho một chăn chiên, một chiếc màn một, một cơ số vải giao cho HTX may mặc Sông Lam chịu trách nhiệm may ngay cho Đức hai bộ quần áo mang đi. Sau ngày anh Đức rời làng Cổ Bái đi học chuyên Toán tỉnh, ông Đèo cũng mang cả gia đình lên định cư tại xã Nghi Vạn cùng huyện Nghi Lộc.
Năm 1975 từ Ba Lan, anh tốt nghiệp Đại học “bằng đỏ” về làm việc tại Viện nghiên cứu Toán học (ở phố Đội Cấn, Hà Nội). Ngày ấy, đơn vị tôi đóng cạnh ngôi đền Voi Phục (Ngã ba Cầu Giấy). Chủ nhật tôi bách bộ sang thăm “ông viện sĩ” người cùng quê. Trong chuyện trên trời dưới bể, có lần tôi vô tình kể lại điều mắt thấy tay sờ ngôi “nhà” của ông Đèo từ 15 năm trước. Anh lặng nghe như hóa thạch, mãi sau mới nhỏ nhẹ:
- Đến giờ vẫn chưa hết buồn em ạ. Từ thời ấy đã nhắc nhở anh dù ở đâu, làm gì mình vẫn là mình! Vừa rồi anh về thăm quê, tự dưng mọi lo toan biến sạch khỏi bộ nhớ, chỉ còn lại trong thăm thẳm ký ức nặng trĩu nghĩa tình nơi cố hương!
Cho đến tháng 4-2005, lần cuối cùng gặp nhau tại thành phố Vinh, anh vẫn chất giọng Cổ Đan không có gì pha trộn nổi. Là kẻ ngoại đạo về lĩnh vực khoa học tự nhiên, trước khi viết bài này tôi phải nhờ một số nhà khoa học bạn bè anh để biết mấy mốc lớn trong cuộc đời anh: Trong thời gian làm việc tại Viện Toán học Việt Nam, anh bảo vệ Tiến sĩ Toán khi 30 tuổi, bảo vệ TSKH (Vật lý) tại Ba Lan khi 38 tuổi, năm 43 tuổi được phong PGS, tác giả của mười mấy công trình nghiên cứu về Toán, Lý được đồng nghiệp trong và ngoài nước đánh giá cao. Từ 1983 anh vào giảng dạy tại trường Đại học Đà Lạt. Từ 1987-1996 là Phó hiệu trưởng, 1997-2007 là Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng Trường Đại học Đà Lạt.
Sinh thời anh không thích bộc bạch về mình. Anh cầm tinh con chuột, biệt danh “Đức chuột nhắt” thì chỉ những bạn thuở trường làng mới biết. Vì nhà quá nghèo, thể trạng anh quắt queo như “chuột nhắt”, cây non ấy thiếu dưỡng nên thể trạng thấp bé so với chúng bạn cùng lứa. Mấy năm mắc bệnh nan y, anh vẫn cố giấu mọi người và chỉ khi vợ anh “rỉ tai” bạn bè thân cận mới biết. Dẫu biết sinh, lão, bệnh, tử là quy luật nghiệt ngã không ai cưỡng nổi, nhưng khi Ban lãnh đạo Trường Đại học Đà Lạt và gia đình thông báo tin buồn trên phương tiện truyền thông, nhiều đồng nghiệp ở khắp trong và ngoài nước vẫn không khỏi thảng thốt: Đúng lúc đất nước đang cần những nhân cách như vậy thì sao anh vội ra đi.
Giao Hưởng