QĐND Online - “Khi loạt đạn đầu tiên bắn xối xả vào buồng lái, người đồng chí của chúng tôi đã hi sinh. Rồi 2 đồng chí nữa cũng ngã xuống. Chứng kiến anh em ra đi trên tay mình, chúng tôi chỉ biết ghìm lại nỗi đau để chống trả 6 tàu địch đang cố bắn phá tàu của mình”…Người cựu binh 24 lần “cưỡi” tàu không số nghẹn ngào kể với chúng tôi câu chuyện hào hùng hơn 40 năm về trước.
Nợ đồng đội một lời hẹn ước
Sinh năm 1941, trên mảnh đất Bến Tre giàu truyền thống cách mạng. 21 tuổi, chàng trai Nguyễn Văn Đức xung phong vào chiến trường, tuần dương trên những con tàu không số. 24 lần “cưỡi” sóng vận chuyển vũ khí, quân nhu vào chiến trường miền Nam, Nguyễn Văn Đức (tên thường gọi Ba Đức), từng là Thuyền phó kiêm hàng hải trong chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Năm 1975, trong chiến dịch Hồ Chí Minh, ông được giao nhiệm vụ làm Thuyền trưởng tàu 674 tham gia giải phóng các đảo: Song Tử Tây, Nam Yết, Sơn Ca, Sinh Tồn, An Bang, Trường Sa.
Đón chúng tôi tại văn phòng Hội cựu chiến binh quận 5, TP Hồ Chí Minh, ông lật những tấm hình chụp chung với đồng đội xưa. Chỉ vào một tấm hình đã hoen ố, ông rưng rưng: “Đây là ba đồng chí đã hi sinh trong trận quyết tử với kẻ thù trên con tàu 43 năm xưa. Đến nay, tui vẫn còn nợ các anh một lời hẹn…”.
Nói đến đây, giọng ông chùng xuống. Giờ phút “giáp lá cà” với kẻ thù như sống dậy thuở nào. Ông kể:
- Lần ấy, trước khi lên đường tiếp tế vũ khí cho chiến trường miền Nam, tàu 43 cùng các tàu 56, 164 và 235 được giao nhiệm vụ khẩn cấp. Ngày 27-2-1968, tàu được lệnh chở 38 tấn vũ khí vào bến Mỹ Á, Đức Phổ (Quảng Ngãi). Cấp trên chỉ đạo cả bốn tàu: phải đi bằng mọi giá trong đợt này. Dù xuất phát ở các thời điểm khác nhau (nhằm phân tán sự theo dõi của địch) nhưng phải đổ cùng lúc tại bến. Đáng lẽ chỉ đi 5 ngày, 6 đêm nhưng sóng to, gió lớn cùng sự theo dõi gắt gao của địch khiến tàu lênh đênh 11 ngày trên biển. Bốn tàu được lệnh đi 4 hướng khác nhau: Đức Phổ, Bình Định, Khánh Hòa và Cà Mau. Tàu 43 (do thuyền trưởng Nguyễn Đắc Thắng và Chính trị viên Trần Ngọc Tuấn chỉ huy) giữ được bí mật nhưng khi qua vĩ tuyến 17 thì bị vệ tinh của Mỹ theo dõi liên tục. Sau đó, tàu chạm 6 tàu địch và 2 trực thăng. Giáp mặt với kẻ thù, không để tàu vũ khí lọt vào tay địch, anh em đã có một trận chiến đấu quyết tử.
 |
Cựu chiến binh Nguyễn Văn Đức. |
“Anh Đức, chắc em không qua khỏi. Gửi lời về gia đình em!..”, chiến sĩ Xuân Ruệ nói với ông Đức.
Tiếng súng vẫn chát chúa trên đầu. Đạn của địch bắn xối xả vào buồng lái. Bên ta bắn trả quyết liệt. Thuyền phó Nguyễn Văn Đức một tay cầm lái, một tay đỡ người Ruệ. Lúc này, chiến sĩ Hòa cũng bị thương nặng ở cánh tay nên không thể tiếp tục cầm lái. Ba Đức cố điều khiển con tàu lượn lách để tránh các loạt đạn của kẻ thù.
Bọc vội thi thể đồng chí Ruệ vào tấm áo ni lông, Ba Đức cùng đồng đội nén đau thương, tiếp tục chiến đấu. - “Ruệ mới cưới vợ được ba ngày. Khi có lệnh của Bộ Tổng tham mưu, cậu ấy đã để lại người vợ trẻ ở quê nhà (Tiền Hải, Thái Bình) xung phong vào chiến trường. Không ngờ đó là chuyến đi định mệnh”- ông Đức nghẹn ngào nhớ lại.
14 người còn lại chống trả quyết liệt trước các đợt tấn công của địch. Cuộc chiến đấu không cân sức. Dù bị bao vây tứ phía nhưng các chiến sĩ vẫn kiên cường chiến đấu. Hầu hết anh em lúc này đều bị thương. Phía ta đã hạ được hai tàu và một trực thăng của địch. Trong tình thế cam go, Thuyền trưởng Nguyễn Đắc Thắng đã ra lệnh hủy tàu. Trước khi con tàu nổ tung, các chiến sĩ đã xuống xuồng bơi vào đất liền. Nguyễn Văn Đức kéo tấm bọc thi thể Xuân Ruệ ra khỏi khoang tàu, cố đẩy Ruệ xuống biển để đưa vào bờ. Bản thân ông cũng bị thương ở chân. Đang cố nhoài mình vào bờ thì loạt đạn của địch bắn xối xả. Đồng chí Nguyễn Đăng Kiểm (quê Quảng Ngãi) bị trúng đạn. Vì vết thương quá nặng, anh đã mãi nằm lại giữa lòng đại dương bao la. Sau đó, phải mất gần 2 tiếng đồng hồ, các chiến sĩ tàu không số mới tiếp cận được đất liền.
Nhớ lại ngày ấy, ông Đức nghẹn giọng: “Tui vẫn còn nợ các đồng chí đã hi sinh một lời hẹn. Hơn 40 năm trôi qua, vì nhiều lý do, tui chưa ra thăm gia đình các anh em Vũ Xuân Ruệ, Nguyễn Đăng Kiểm, Võ Nho Tòng. Trong lòng áy náy lắm. Nhân dịp kỷ niệm “50 năm mở đường Hồ Chí Minh trên biển”, nhất định tui phải ghé thăm gia đình các anh em”.
Trường Sa vẫy gọi
Sau lần “cảm tử” với địch trên tàu 43, ông tiếp tục bôn ba với sóng gió trên những con tàu không số huyền thoại. Cái “duyên” với biển cả như ăn sâu vào con người ông. Ông kể về những ngày “đạp sóng” để giải phóng Trường Sa thân yêu.
- Lúc này, tui được cử là Thuyền trưởng tàu 674, có nhiệm vụ chỉ huy hai tàu 673 và 675. Cái đêm trước ngày lên đường, tui không sao chợp mắt được. Lần đi này hòa cũng chiến dịch Hồ Chí Minh thiêng liêng của Tổ quốc, nên hồi hộp lắm - Ông tâm sự.
Sau khi giải phóng Đà Nẵng vào cuối tháng 3 năm 1975, biên đội dự bị của đoàn tàu không số được lệnh từ Hải Phòng vào Đà Nẵng để nhận nhiệm vụ đặc biệt. Anh em hăm hở lên đường mà không biết sẽ được giao nhiệm vụ gì. Chỉ trong vòng 3 tiếng đồng hồ, tất cả phải chuẩn bị lương thực, thực phẩm, xăng dầu cho chuyến đi. Sáng sớm ngày 12-4, đoàn tàu chở chiến sĩ tàu không số xuất phát từ Hải Phòng. Chiều ngày hôm sau, tàu cập cảng Tiên Sa, Đà Nẵng theo đúng kế hoạch. Ngay lập tức, Bộ Tổng tham mưu lệnh cho ba tàu giả dạng tàu đánh cá cấp tốc nhận nhiệm vụ đi giải phóng Trường Sa.
Khi tàu đến gần đảo Trường Sa thì bỗng trên bầu trời máy xuất hiện máy bay địch. Bộ đội đặc công nước và vũ khí của ta được giấu dưới khoang tàu, phía trên phủ lưới đánh cá. Tình thế khiến các chỉ huy không khỏi lo lắng. 3 thuyền trưởng dự đoán tình hình: tàu bị lộ rồi! Lúc này, chỉ huy trưởng Mai Năng lệnh cho các tàu chuyển hướng lên vùng biển đảo Hải Nam (Trung Quốc) nhằm đánh lạc hướng địch. Sau một hồi quần thảo, máy bay địch rút lui. Lập tức tàu ta tăng tốc nhằm hướng đảo Trường Sa Lớn. Hai tàu địch còn nằm trên đảo. Phía ta nổ súng, địch bắn lại. Hai đồng chí đặc công của ta hi sinh. Sau gần 3 giờ chiến đấu, ta bắt sống được 34 lính ngụy.
Thuyền trưởng Văn Đức lệnh tất cả anh em thừa thắng xông lên chiếm đảo. Địch quy hàng.
Đúng thời khắc chạm đến chiến thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh trên bộ, cũng là lúc quân ta giải phóng 6 đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Những chiến sĩ của Đoàn tàu không số lại làm nên những “trang sử” hào hùng giữa biển trời Tổ quốc.
Cuối năm vừa rồi, ông Ba Đức đã trở lại Trường Sa, cùng đồng đội ôn lại kỷ niệm một thời khói lửa.
Bài và ảnh: PHƯƠNG NGA