QĐND - Sinh ra và lớn lên ở huyện Mường Tè - huyện nghèo nhất của tỉnh Lai Châu và cả nước, tuổi thanh xuân lại gặp không may trong đường tình duyên, vậy mà Lò Thị Xuân, cô gái dân tộc Thái vẫn trong trẻo như cánh hoa ban vùng Tây Bắc, vượt khó, vượt khổ, cống hiến hết mình cho sự nghiệp, đảm đang nuôi dạy con, gặt hái được rất nhiều giải thưởng… Thiếu tá Lò Thị Xuân đã trở thành niềm tự hào của phụ nữ trong cơ quan Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam.
Thân gái dặm trường, lên rừng xuống biển
Triển lãm “Nghĩa tình đồng đội” do Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam phối hợp với Bảo tàng Quân khu 4 tổ chức nhân kỷ niệm 65 năm Ngày Thương binh-Liệt sĩ đã gây xúc động mạnh với rất nhiều khách tới tham quan. Nhiều người đã rơi nước mắt trước những di vật trở thành hiện vật “biết nói”. Các di vật này đã gắn bó với các liệt sĩ là Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh tại nước bạn Lào. Để có những di vật quý giá đó, các cán bộ của Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam đã phải lặn lội cùng với các Đội quy tập hài cốt liệt sĩ của Quân khu 4, nâng niu, sắp xếp, ghi chép, gói ghém cẩn thận... Thiếu tá Lò Thị Xuân là một trong những người tham gia tích cực nhất việc tìm kiếm di vật này.
Xuân kể cho tôi nghe những câu chuyện cảm động của những người làm công tác quy tập hài cốt liệt sĩ. Khó có thể nói được hết những khó khăn, vất vả thậm chí có thể hy sinh cả tính mạng của mình để có được những di vật của những người đã hy sinh cách đây vài chục năm. Mỗi di vật sưu tầm được trưng bày ở triển lãm này là một trong những cầu nối của liệt sĩ với thân nhân gia đình mặc dù thông tin qua di vật là rất mong manh. “Tìm lại tên cho anh” là điều mà thông qua triển lãm chuyên đề “Nghĩa tình đồng đội” đã tiếp thêm cho Lò Thị Xuân một niềm tin và hy vọng chắp nối các thông tin của liệt sĩ. Và một điều thật hạnh phúc cho những người tổ chức cuộc triển lãm này, qua trưng bày, đã có 5 liệt sĩ được thân nhân đến tìm nhận.
 |
Thiếu tá Lò Thị Xuân tiếp nhận hiện vật của các cựu chiến binh tỉnh Thái Nguyên (tháng 3-2012) tại Thái Nguyên. Ảnh: Vũ An.
|
Sưu tầm di vật của các liệt sĩ hy sinh tại Lào chỉ là một trong những chuyến đi công tác dài ngày của Lò Thị Xuân. Với chiếc ba lô trên vai, Xuân đã có những chuyến đi hàng tháng trời ở hải đảo, vùng biên giới phía Bắc, theo đường Hồ Chí Minh xuyên dãy Trường Sơn năm xưa… sưu tầm được rất nhiều hiện vật quý. Trong đó phải kể đến chiếc kẻng từ quả bom của Mỹ ném xuống đảo Hòn Mê (Thanh Hóa) năm 1964, “cây nhiệt đới” của Mỹ thả trên đường Trường Sơn, hiện vật cổ trưng bày ở triển lãm “Những trận đánh, chiến dịch nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam”… Những hiện vật đó đã góp phần tạo ra các cuộc triển lãm sống động của Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam.
Chuyến đi công tác xa nhà lâu nhất của Lò Thị Xuân kéo dài tới gần 5 năm (từ năm 2004 đến năm 2008) khi Xuân được cử làm chuyên gia sang giúp Bảo tàng Quân đội nhân dân Lào. Nhiệm vụ được giao thật nặng nề, Xuân cùng các đồng nghiệp Việt Nam phải giúp bạn xây dựng nội dung, ma-két, đề cương chi tiết đến cả thi công nội thất trưng bày... Để hoàn thành nhiệm vụ được giao, Xuân đã phải tự học tiếng của bạn, chủ động trong mọi công việc cốt làm sao để hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất. Ghi nhận những thành tích của cô, Chủ tịch nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đã trao tặng Lò Thị Xuân Huân chương Lao động hạng ba và Xuân cũng vinh dự được nhận Bằng khen của Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào (năm 2008).
Trong gần hai chục năm làm công tác bảo tàng, Lò Thị Xuân đã tham gia nhiều chuyên đề triển lãm như: “Trang phục Quân đội nhân dân Việt Nam” (năm 2000), “Nghĩa tình đồng đội”, “Phụ nữ Quân đội trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (năm 2002), “Một số hình ảnh, hiện vật 55 năm thành lập Quân đội nhân dân Lào” (năm 2003), “Huyền thoại Trường Sơn” (năm 2009), “Một số trận đánh nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam” (năm 2010), “Tuổi trẻ anh hùng - Truyền thống vẻ vang” (năm 2011)... Mỗi chuyên đề trưng bày là những tháng ngày nghiên cứu, đi sưu tầm bổ sung hiện vật cho chuyên đề. Đến nay, Lò Thị Xuân đã có mặt tại hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước.
Luôn có duyên với các cuộc thi lớn
Giản dị, mộc mạc, đam mê nghiệp vụ bảo tàng là tính cách nổi bật của Lò Thị Xuân, vậy mà cô gái người dân tộc Thái này lại có duyên với các giải thưởng lớn trong các cuộc thi mang tính toàn quân, toàn quốc. Năm 2004, Xuân đoạt giải đặc biệt toàn quân và giải nhì toàn quốc cuộc thi “Âm vang Điện Biên”. Năm 2008, Xuân “ẵm” giải nhất toàn quốc cuộc thi “Tìm hiểu biển, đảo Việt Nam”. Gần đây, Xuân cũng đã “gặt hái” khá thành công các cuộc thi do Tổng cục Chính trị và Bộ Quốc phòng tổ chức.
Có người cho rằng, cán bộ bảo tàng, hằng ngày tiếp xúc với hiện vật cùng câu chuyện phía sau những hiện vật ấy, họ giành giải là đương nhiên. Cũng có người lý giải, do Xuân ít vướng bận công việc gia đình (vì cậu con trai duy nhất đã lớn). Thế nhưng, với Xuân câu chuyện lại không hoàn toàn như vậy.
Sinh ra, lớn lên trên vùng đất Tây Bắc của Tổ quốc, sau khi tốt nghiệp đại học, Lò Thị Xuân đã có thời gian công tác tại Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Cũng chính từ những buổi hướng dẫn khách đi thăm lại chiến trường xưa, đặc biệt là những kỷ niệm gắn bó ở vùng đất mà mình sinh ra đã tạo ra nét riêng của bài dự thi “Âm vang Điện Biên” nhân kỷ niệm 50 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Sự độc đáo này đã thuyết phục được ban giám khảo để rồi Lò Thị Xuân được vinh danh ở thứ hạng cao, vượt qua hàng nghìn bài dự thi khác.
Ở cuộc thi tìm hiểu về biển, đảo Việt Nam, Lò Thị Xuân bộc bạch: “Em phải cảm ơn rất nhiều cán bộ, chiến sĩ ở đảo Hòn Mê (Thanh Hóa) bởi chính Hòn Mê đã “gây men”, tiếp sức làm nên “chất liệu” chính trong bài dự thi qua chuyến đi sưu tầm hiện vật, giao lưu với cán bộ, chiến sĩ nơi đây. Đặc biệt hơn, đó là tình yêu với biển, đảo qua các hiện vật “biết” nói, những tấm gương liệt sĩ đã hy sinh vì biển, đảo thân yêu của Tổ quốc… Càng nghiên cứu biển, đảo, em càng thấy say mê và hấp dẫn đến lạ”. Bài dự thi “Tìm hiểu biển, đảo Việt Nam” của Lò Thị Xuân như một lời tri ân sâu sắc của cô gái dân tộc Thái dành tình yêu cho biển, đảo Việt Nam.
Xuân tâm sự với tôi rằng, cô tham gia các cuộc thi không phải vì giải thưởng, lại càng không phải vì muốn “chơi trội” với mọi người. Xuân nói: “Em tham gia dự thi, trước hết vì phong trào chung của cơ quan Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, sau đó là niềm đam mê tìm hiểu, cũng là dịp để tri ân các thế hệ đi trước, trả ơn những người đã giúp đỡ em trong hoạt động nghiệp vụ”.
“Con ong của Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam”
Đó là lời của Đại tá Lê Thị Hồng Vân, Phó giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam dành cho Thiếu tá Lò Thị Xuân, Phó trưởng phòng Nghiên cứu sưu tầm-Hướng dẫn nghiệp vụ. Còn với Phạm Hương Giang (cán bộ Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam) đã gắn bó với Xuân gần 20 năm thì đánh giá: “Chị Xuân thực sự là một trong những tấm gương để chúng em học tập và noi theo. Chị là nguồn cổ vũ, động viên chị em phụ nữ trong Bảo tàng vượt qua những thử thách khó khăn, phấn đấu trở thành người phụ nữ thành công trong cuộc sống và công việc”.
Trừ những ngày đi công tác, còn hiếm thấy khi nào Xuân rời cơ quan trước 18 giờ. Hết nghiên cứu đọc tài liệu, lại tỉ mẩn với các hiện vật mới sưu tầm được. Có những lần chuẩn bị cho triển lãm, Xuân phải làm việc đến tận 11, 12 giờ đêm mới về nhà. Không hiểu có phải vì quá say mê mới công việc mà Thiếu tá Lò Thị Xuân cho đến thời điểm này vẫn còn là “lính phòng không”?
Khác với nhiều chị em phụ nữ trong cơ quan Tổng cục Chính trị, Lò Thị Xuân đã gặp nhiều chuyện không may trong đường tình duyên. Một mình, vừa đảm nhiệm vai trò làm mẹ, vừa đảm nhận vai trò làm bố trong việc nuôi dạy con cái. Thế nhưng, cái không may đó lại giúp Xuân có thêm nghị lực trong cuộc sống, yêu công việc chuyên môn hơn và chắt chiu nuôi dạy con nên người. Thời gian rỗi rãi, Xuân đều dành cho con, động viên, dạy bảo cháu. Các năm học ở bậc phổ thông, cháu đều là học sinh giỏi, thi đỗ đại học với số điểm khá cao và đến nay con trai của Xuân đã là sinh viên năm thứ ba của Học viện Kỹ thuật Quân sự.
Không phải riêng tôi mà có khá nhiều người đã tiếp xúc với Xuân đều có chung nhận xét: Thiếu tá Lò Thị Xuân có những nét giống như cây hoa ban của núi rừng Tây Bắc. Hoa không ngát hương nhưng thật quyến rũ lòng người. Vẻ đẹp của những chùm hoa trắng ngần, gợn tím, dù trong khói bụi, ồn ào của chốn đô thành vẫn trong trẻo, nguyên sơ như vẻ đẹp bình dị của núi rừng Tây Bắc thân yêu.
Đỗ Phú Thọ