Để gặp nghệ sĩ Khắc Tuế, chúng tôi chủ động đến thăm ông vào buổi sáng, bởi đã 20 năm kể từ ngày về hưu, đều đặn mỗi chiều, ông luôn giữ thói quen cùng vợ là nghệ sĩ múa, nguyên Trung tá QNCN Ngô Thị Ngọc Diệp đi bơi, bởi theo ông, có sức khỏe tốt mới làm việc và cống hiến được. Hình ảnh hai vợ chồng tuổi ngoài 80, ngày ngày chở nhau đi thể dục, đi tập múa đã trở nên quen thuộc với người dân Khu tập thể Nam Đồng (quận Đống Đa, TP Hà Nội). Thấy ông bà khỏe khoắn, minh mẫn, tôi nói vui:
- Phải chăng theo nghiệp múa nhiều năm nên ông bà có sức khỏe tốt như vậy?
Ông cười hiền. Bao ký ức lại ùa về, những kỷ niệm một thời binh nghiệp và ca múa của mình.
Nghệ sĩ Khắc Tuế giới thiệu những cuốn sách đã xuất bản. Ảnh: Nguyễn Thu
Nghệ sĩ Khắc Tuế sinh năm 1934, quê ở miền đất ven biển Đồ Sơn, TP Hải Phòng. Mới 12 tuổi, ông đã nhập ngũ, trở thành chiến sĩ liên lạc cho đồng chí Đặng Kinh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2, Trung đoàn Hải Kiến. Sau đó, ông chuyển về đội hình Đại đoàn 320, là Khẩu đội trưởng Khẩu đội đại liên thuộc Đại đội 30, Tiểu đoàn 722, Trung đoàn 64. Lập công trong một trận chiến đấu chống càn vào tháng 3-1952 ở làng Tiên Khoán (Bình Lục, Hà Nam), ông được đề bạt làm Trung đội phó Trung đội đại liên, được tặng thưởng Huân chương Chiến công và trở thành Chiến sĩ thi đua của Đại đoàn 320. Ít ai nghĩ rằng, người xạ thủ ấy sau này lại trở thành một biên đạo múa.
Tình cờ trong một đêm lửa trại, Khắc Tuế cùng đồng đội múa hết mình mừng chiến thắng. Sau lần ấy, lãnh đạo Đội Văn công Đại đoàn 320-nhạc sĩ Huy Du và nhạc sĩ Vũ Trọng Hối đề nghị đơn vị chuyển ông về công tác tại đội văn công. Sau Đại hội Văn công toàn quân lần thứ nhất (tháng 7-1954), ông trở thành diễn viên của Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị.
Từ năm 1961-1964, Khắc Tuế được cử đi học biên đạo múa tại Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên. Trở về sau 4 năm đèn sách, do yêu cầu của chiến trường miền Nam, ông tham gia Chiến dịch Mậu Thân, là Trưởng đoàn công tác quân báo và địch vận quân Nam Triều Tiên. Hoàn thành nhiệm vụ đặc biệt này, trở về miền Bắc, ông được trực tiếp báo cáo thành tích với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, được Đại tướng ghi nhận và chỉ đạo: “Từ nay, đồng chí không đi địch vận, quân báo nữa…”. Câu nói của Đại tướng làm sáng lên trong ông niềm hy vọng được làm đúng “chuyên môn”, tận tâm, tận lực cho nghệ thuật múa quân đội. Cuối năm 1968, ông giữ cương vị Đoàn trưởng ĐCMTCCT. Từ năm 1977-1979, ông làm Trưởng đoàn Chuyên gia Văn công Quân đội Pa-thét Lào, sau đó được bổ nhiệm làm Giám đốc Công ty Biểu diễn nghệ thuật Việt Nam.
Thời gian phụ trách ĐCMTCCT, ông chỉ huy đoàn có mặt ở khắp các mặt trận để biểu diễn phục vụ bộ đội, cùng bộ đội chiến đấu. Không chỉ biểu diễn ở trong nước, ông cùng đoàn mang những tiết mục múa của Việt Nam đến với đông đảo bạn bè quốc tế tại các nước: Triều Tiên, Liên Xô (trước đây), Trung Quốc, Mông Cổ… Đặc biệt, trong Liên hoan Thanh niên và Sinh viên thế giới lần thứ 10 tại Đông Béc-lin (năm 1973), ông là Trưởng đoàn Nghệ thuật Việt Nam, tham gia dàn dựng giúp các bạn thanh niên, sinh viên Đức múa điệu múa sạp với sự tham gia của hơn 1.000 người. Cứ như thế, khả năng biên đạo múa, kinh nghiệm trong công việc chỉ đạo nghệ thuật của ông ngày càng phong phú, chuyên sâu hơn.
Khi chúng tôi hỏi tiết mục múa nào ông nhớ nhất, giọng ông chùng xuống: “Đó là sử thi múa “Dưới ngọn cờ vẻ vang của Bác”. Rồi ông kể: “Ngày Bác mất, tôi được giao cùng họa sĩ Huy Chính thực hiện một nhiệm vụ quan trọng. Lúc này, các đồng chí trong Bộ Chính trị đang khóc, nỗi đau tột cùng khi Bác ra đi. Hình ảnh ấy đã tác động đến tôi một cách mãnh liệt. Tôi bật ra ý tưởng sẽ xây dựng một tác phẩm múa về ngày Bác mất…”.
Ngày 22-12-1969, đúng dịp kỷ niệm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, tiết mục sử thi múa “Dưới ngọn cờ vẻ vang của Bác” được biểu diễn tại Hội trường Ba Đình. Tiết mục có sự tham gia của 200 diễn viên, nghệ sĩ thuộc ĐCMTCCT và được bố cục thành 3 phần, cùng với bố cục, diễn tấu, sử dụng âm nhạc hợp lý và tình cảm chân thành từ đáy lòng của mỗi nghệ sĩ, đã gây xúc động với tất cả mọi người.
“Cậu làm tôi khóc đấy!”-đó là câu nói của Đại tướng Võ Nguyên Giáp với nghệ sĩ Khắc Tuế sau khi xem xong tiết mục sử thi “Dưới ngọn cờ vẻ vang của Bác”. Đại tướng còn dặn ông: “Nhớ mang chương trình này vào Nghệ An, diễn cho trong ấy xem”. Vâng lời Đại tướng, một tháng sau, nghệ sĩ Khắc Tuế cùng đoàn vào diễn tiết mục múa ở Nam Đàn-quê hương Bác. Dù đoàn diễn “tay bo” nhưng được quân và dân nơi đây hưởng ứng nhiệt tình.
Năm 1997, nghệ sĩ Khắc Tuế về nghỉ hưu nhưng ông không chịu nghỉ, bởi cái nghề, cái nghiệp múa đã ăn sâu vào máu thịt của ông. Ông tham gia dàn dựng nhiều tiết mục cho Câu lạc bộ Văn nghệ cựu chiến binh quận Hoàn Kiếm, Đội múa Câu lạc bộ nghệ thuật người cao tuổi TP Hà Nội… Mỗi tuần có vài buổi, ông cùng vợ đến dàn dựng, ôn luyện các điệu múa truyền thống, phục vụ những chương trình biểu diễn của các cơ quan, đơn vị mỗi dịp có sự kiện hay kỷ niệm các ngày lễ lớn. Ông còn tích cực viết sách với nhiều tác phẩm tiêu biểu như “Tổng Tư lệnh với văn nghệ sĩ”; “Bác Hồ với văn học nghệ thuật”… và sắp tới, ông cho ra mắt bạn đọc cuốn “Cuộc hành quân cùng nghệ thuật múa”…
Mới đây, nghệ sĩ Khắc Tuế đứng ra cùng các nghệ sĩ, cựu chiến binh ca múa quân đội phục dựng những điệu múa truyền thống của văn công quân đội, những điệu múa để lại dấu ấn trong lòng người hâm mộ trong nước và nước ngoài. Đó là 6 điệu múa: Múa sạp, Múa nón “Mùa ban nở”, Những cô gái Pa-cô, Xòe hoa, Múa Chàm rông và Múa Roong chiêng. Ông chia sẻ: “Phục dựng những điệu múa truyền thống là góp phần giữ gìn di sản văn hóa của dân tộc, đồng thời là sự tri ân tới những đồng đội, người anh, người thầy của nghệ thuật múa quân đội, nghệ thuật múa Việt Nam”.
THU THỦY