Sau khoảnh khắc trầm ngâm bên chén trà nóng, ông Khoa nhớ lại: “Tháng 4-1965, tôi viết đơn tình nguyện lên đường nhập ngũ khi vừa tròn 21 tuổi. Sau những tháng huấn luyện, tôi được điều về nhận nhiệm vụ tại Đại đội 14 cối 82, thuộc Trung đoàn 101, Sư đoàn 325, Quân đoàn 2. Đại đội 14 sau đó được biên chế về Trung đoàn 33-A57, Bộ tư lệnh miền Đông Nam Bộ”.
Cùng đơn vị tham gia vào nhiều trận đánh trên chiến trường, nhưng trận đánh cuối cùng trong đời quân ngũ của ông Khoa vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968 là một kỷ niệm khó quên. Ngày ấy, ông Khoa là pháo thủ của Trung đội 1, Đại đội 14. Vào cuối tháng 1-1968, Trung đoàn 33 có nhiệm vụ đánh tiêu diệt địch và tiến tới giải phóng thành phố Buôn Ma Thuột. Trung đội 1, Đại đội 14 được phối thuộc với một đơn vị bộ binh có nhiệm vụ đánh tiêu diệt đơn vị vận tải của địch ở Tiểu khu Đắc Lắc.
 |
Thương binh Nguyễn Trường Khoa (ngồi giữa) kể về câu chuyện ông bị báo tử nhầm. |
Sau khi hoàn thành mọi công tác chuẩn bị, 0 giờ 45 phút ngày 30-1-1968, Trung đội 1 được lệnh khai hỏa chế áp, tiêu diệt các mục tiêu theo kế hoạch để tạo điều kiện cho bộ binh xung phong. Mũi tiến công ở hướng Trung đội 1 bị hỏa lực của địch tập trung. Trong quá trình vận động chiến đấu, ông Khoa bị đạn bắn xuyên qua đầu gối. Thân người vừa đổ ập xuống đất, ông Khoa tiếp tục bị thương phần đầu. Ông Khoa kể: "Quan sát thấy tôi ngã gục, anh Khải (người Nghệ An), Trung đội phó Trung đội 1 bò đến bên cạnh lay tôi và nói: "Bị sao vậy Khoa? Còn vận động được không?". Mắt tôi nhòe đi vì máu, chân đau buốt không thể cử động. Nắm chặt tay anh Khải, tôi cố gắng nhắn nhủ: “Chắc em không qua khỏi. Cho em gửi lời hỏi thăm mọi người...".
Vừa dứt lời, một tiếng nổ lớn vang ngay bên, ông Khoa ngất lịm. Khi mở mắt ra thì ông thấy bọn địch đang vây quanh và dùng chân đá mạnh vào người. “Vũ khí mày để đâu?”, bọn chúng hung hăng quát. “Tôi không có vũ khí gì cả”, ông Khoa trả lời. Một tên lính ngụy rê nòng súng kề vào đầu ông định nổ súng thì một tên khác ngăn lại, bảo: “Thằng này bị thương, tàn phế không làm được gì đâu, bắt sống, chúng ta sẽ được thưởng tiền, thưởng phép”. Sau đó, địch kéo lê ông về căn cứ. Trong thời gian bị giam cầm tại tiểu khu Đắc Lắc, ngày nào ông Khoa cũng bị địch tra tấn để khai thác thông tin. Dưới những đòn thù tàn ác của kẻ địch, ông Khoa vẫn kiên trung không khai báo... Cuối cùng, bọn địch chuyển ông Khoa đến trại giam Pleiku, rồi đưa ra địa ngục trần gian-nhà tù Phú Quốc.
Trong ngục tù Phú Quốc, ông Khoa và các đồng chí cộng sản kiên trung tiếp tục bị địch tra tấn. Nhưng sắt thép và đòn thù không thể làm nguội lạnh ý chí chiến đấu. Ông Khoa cho biết: “Kẻ thù càng tàn ác, bạo ngược bao nhiêu thì tất cả mọi người lại càng đoàn kết, tổ chức tuyệt thực khiến kẻ thù phải kinh sợ và khâm phục ý chí của các chiến sĩ cộng sản”.
Ở trong tù được hơn một năm thì người anh đồng hương tên là Trịnh Văn Khuê, ở huyện Thạch Hà (Hà Tĩnh) cũng bị địch bắt và chuyển đến nhà tù Phú Quốc. Ông Khoa kể tiếp: “Gặp tôi, anh Khuê đến bên và vỗ vai, nói nhỏ: “Khoa đó hả! Vẫn sống à? Mình nghe mọi người nói kết thúc trận đánh hôm đó, đơn vị quay lại tìm đồng đội, nhưng bọn địch đã dồn tất cả tử sĩ xuống hố bom rồi lấp chôn tập thể... Mọi người đều nghĩ Khoa đã hy sinh và báo về cho địa phương làm lễ truy điệu rồi”.
Năm 1973, ông Khoa và người anh đồng hương Trịnh Văn Khuê cùng được trao trả, được đưa về điều trị tại Trung tâm An dưỡng thương binh ở Tuyên Quang. “Biết tin tôi còn sống, bố tôi lúc đó đang là chuyên gia cố vấn hậu cần, kỹ thuật cho nước bạn Lào đã xin nghỉ phép. Đến trung tâm thăm tôi, bố tôi xin phép tổ chức đưa tôi và anh Khuê về thăm quê. Tôi trở về trong niềm vui, sự ngạc nhiên của người thân và hàng xóm. Sau đó hai năm, sức khỏe ổn định hơn, tôi xin trung tâm về địa phương”, ông Khoa nhớ lại.
Đã hàng chục năm trôi qua, nhưng ký ức về thời hoa lửa vẫn vẹn nguyên trong trí nhớ ông Khoa. Hiện nay, ông Khoa đã mở hiệu thuốc Nam, khám, chữa bệnh cho nhân dân, cuộc sống gia đình đầm ấm, hạnh phúc; còn tấm bằng Tổ quốc ghi công đã ghi nhầm tên ông năm xưa thì vẫn được ông gìn giữ như một kỷ vật khó quên trong đời quân ngũ.
Bài và ảnh: HOÀNG TRUNG