QĐND - Người ta vẫn nói anh là một người hy sinh hạnh phúc cá nhân để xung phong công tác ở nơi khó khăn, gian khổ. Vượt lên hoàn cảnh, vượt qua chính mình, anh và đồng đội đã âm thầm mang tâm huyết, tri thức khoa học sát cánh cùng đồng bào các dân tộc “đánh thức” một vùng đất biên cương nhiều gian khó. Anh là Thượng tá Trần Văn Vang, Đội trưởng Đội sản xuất số 4, Đơn vị 825, Đoàn Kinh tế - Quốc phòng B26 (Quân khu 2).

Vượt lên nỗi đau

Đêm Tây Bắc tĩnh lặng. Vầng trăng vằng vặc soi rọi những tán rừng sậm lại sau một ngày quằn quại với gió nóng hừng hực và cái nắng gai người miền Tây. Dòng sông Mã ru đêm bằng những tiếng thì thầm, khe khẽ. Trong tâm khảm Thượng tá Trần Văn Vang bỗng dội về bao kỷ niệm. Vậy là anh đã qua hơn 28 năm quân ngũ rồi. Đó là quãng thời gian anh không được gần vợ con nhưng hình ảnh hai đứa con Minh, Ngọc ê a đánh vần từng con chữ, tiếng sột soạt soạn giáo án của vợ vẫn văng vẳng đâu đây, vừa gần, vừa xa. Hai đứa con ngoan, một người vợ hiền, đó là “tài sản” lớn nhất, là “hậu phương” vững chắc nhất tạo động lực thúc đẩy anh xung phong lên nhận công tác tại Đoàn Kinh tế - Quốc phòng B26 vào năm 2002.

Cũng trong năm đó, anh được bổ nhiệm làm Đội trưởng Đội sản xuất số 4, Đơn vị 825 đóng quân tại bản Co Hịnh, Sốp Cộp (Sơn La). Đây là địa bàn cư trú của đồng bào các dân tộc Thái, Mông, Lào, Khơ-mú với tập quán canh tác đốt nương làm rẫy, chọc lỗ, tra hạt; những hủ tục lạc hậu vẫn ăn sâu trong nếp sống sinh hoạt đồng bào. Đời sống bà con còn nhiều khó khăn, tỷ lệ đói nghèo hơn 50%. Co Hịnh không trường, không đường, không trạm, không điện lưới quốc gia nhưng lại được mệnh danh là vùng đất “thừa nắng, thừa mưa, thừa gió nóng và thừa dốc núi”...

Nhiệm vụ của Đội sản xuất số 4 là giúp nhân dân trên địa bàn phát triển sản xuất thông qua việc hỗ trợ giống, vốn, hướng dẫn kỹ thuật trồng cây lúa nước, ngô lai, sắn cao sản, nuôi nhốt gia súc, gia cầm, nuôi bò theo nhóm hộ. Ngoài ra, các anh còn giúp cấp ủy, chính quyền địa phương kiện toàn và đưa các tổ chức, đoàn thể vào hoạt động có nền nếp...

Vào một đêm đầu mùa hè năm 2006, khi đang cùng đồng đội ngồi ngắm trăng, tận hưởng không khí mát lành sau một ngày lên nương vất vả thì cấp trên thông báo một tin dữ: Chị Trần Thị Liên, vợ anh đột ngột qua đời sau giờ lên lớp. Nghe hung tin, anh tức tốc vượt chặng đường gần 500km để trở về nhà trong đêm bằng xe gắn máy. Về tới nhà, anh như muốn gục ngã khi nhìn thấy hình ảnh hai đứa con chít dải khăn tang và khóc khản tiếng gọi mẹ... Trên ban thờ, di ảnh của vợ với đôi mắt u buồn của người bạc mệnh nhìn anh. Vậy là vợ anh không còn nữa, điều mà cả đêm qua anh vẫn không tin đó là sự thật. Nỗi đau chồng nỗi đau, 2 tháng sau khi vợ mất, người cha kính yêu của anh cũng đột ngột qua đời. Lúc này, anh chỉ biết ngửa mặt lên trời mà than: Sao ông trời lại bất công đến vậy? Tiếng anh lặng vào thinh không mà chẳng có lời đáp lại...

Kể đến đây, đôi mắt người đàn ông khắc khổ chảy tràn hai dòng lệ nóng hổi.

Trái tim sẻ chia hai nửa

Từng đêm trong căn nhà vắng, đếm giọt thời gian, nghe tiếng con khóc gọi mẹ chập chờn trong giấc mơ mà lòng Trung tá Vang như có ai xát muối. Mình phải làm sao đây để bù đắp tình cảm cho các con thơ khi mất đi bàn tay chăm sóc của người mẹ hiền? Nếu trở về quê nhà để chăm sóc các con thì công việc bấy lâu nay mình tâm huyết phải bỏ dở dang ư?

Sau nhiều đêm trằn trọc suy nghĩ, anh đi đến một quyết định khó khăn: Gửi lại hai con cho người chú ruột chăm sóc để trở lại đơn vị. Thông cảm, sẻ chia với nỗi đau ấy, đơn vị đề nghị chuyển anh về xuôi công tác để có điều kiện chăm sóc gia đình, nhưng anh bày tỏ nguyện vọng được tiếp tục ở lại công tác nơi này với lý do: “Tôi đã quen việc, quen địa bàn. Rồi tình cảm sâu nặng của bà con dân bản dành cho... tôi làm sao có thể rời xa?

Thượng tá Trần Văn Vang hướng dẫn đồng bào kỹ thuật chăn nuôi bò.

 

Từ trong nỗi đau của số phận, Trung tá Vang đã lao vào công việc như để quên đi những thiếu hụt, mất mát về tỉnh cảm mà anh và các con đang phải gánh chịu. Nhớ những giọt nước mắt đầy trách nhiệm của vợ trong chuyến lên thăm chồng, nhìn cảnh các cháu phải học trong những lớp học tạm bợ, hứng chịu cảnh “gió lùa, nắng chiếu, mưa xiên” chị đã khóc. Tiếng khóc xuất phát từ tình thương của người mẹ, lương tri và trách nhiệm của nghề "trồng người" khiến chị bật lên thành tiếng “anh phải cố gắng giúp đỡ cho các cháu được nhiều hơn” đã cho anh thêm động lực. Anh lặn lội đến từng bản vận động bà con góp công sức cùng bộ đội xây dựng nhà văn hóa cộng đồng, lớp học cắm bản và vận động đồng bào cho con em đến lớp. Những học sinh nghèo được các anh hỗ trợ, giúp đỡ bằng cách trích một phần tiền lương mua sách vở, đồ dùng học tập.

Để vận động đồng bào thay đổi nhận thức trong tập quán canh tác cũng như nếp sống sinh hoạt, ban ngày các anh lên nương cùng đồng bào, đêm về chong đèn học tiếng nói của dân bản. Thượng tá Vang nghĩ ra sáng kiến toàn Đội sẽ giao tiếp bằng tiếng địa phương trong một thời gian để mọi người có thể hỗ trợ, bổ sung vốn ngôn ngữ cho nhau. Anh kể: “Những ngày đầu đi vận động đồng bào, anh em chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn. Chúng tôi đã lên nương, đi làm ruộng, đến từng gia đình, tham gia các lễ hội cùng đồng bào để vận động nhưng chỉ nhận được những cái lắc đầu và thái độ nghe ngóng, hoài nghi. Qua tìm hiểu được biết, trước khi bộ đội về bản, kẻ xấu đã bịa đặt và tung tin "cái bộ đội người Kinh về chiếm đất của đồng bào, sẽ đuổi bà con ra khỏi vùng đất mà họ đang sinh sống...". Nhiều cuộc họp, thảo luận tìm phương án tiếp cận, vận động đồng bào được tổ chức. Cuối cùng các anh đã lựa chọn phương án biểu diễn văn nghệ để từ đó mà vận động bà con. Nghĩ là làm, khi tiếng nhạc nổi lên, bà con ban đầu tò mò, thấy vui nhưng chỉ đứng nhìn từ xa. Mấy thanh niên mạnh dạn tiến gần rồi góp cùng điệu khèn, lời ca của dân tộc mình. Thành công rồi! Nước mắt sung sướng trào dâng, bao nhọc nhằn của những ngày đi vận động đồng bào vỡ òa trong câu hát. Bà con trầm trồ: “Cái bộ đội còn biết hát cả bài hát dân tộc ta nữa đấy!”. Những buổi biểu diễn văn nghệ là sợi dây tình cảm xóa tan ranh giới, mở đầu cho Thượng tá Vang và Đội sản xuất số 4 triển khai thực hiện các dự án, song vẫn còn rất nhiều gian nan.

Để từng bước tháo gỡ khó khăn, Trung tá Vang cùng Đội sản xuất đã tiến hành các mô hình thí điểm trồng cây lúa nước, ngô lai, sắn cao sản... ngay trên chính ruộng, nương của đồng bào theo hình thức: Làm mẫu, làm thử; áp dụng đại trà... Vừa làm, vừa rút kinh nghiệm kết hợp vận động bà con đến tham quan tại chỗ. Sau khi thu hoạch, anh đối chiếu sản lượng và giải thích cho bà con hiểu rõ tại sao cùng một diện tích, một loại giống mà phương pháp trồng cấy của Đội sản xuất lại cho sản lượng cao hơn. Nhận thức rõ hiệu quả của tiến bộ kỹ thuật, bà con tin và nhận hết giống cây trồng về sản xuất. Từ đó, anh Vang phân công từng người cắm bản, tiến hành chuyển giao kỹ thuật theo hướng “cầm tay chỉ việc”, giải đáp kịp thời những vướng mắc của bà con, tham gia nhiều ngày công cùng nhân dân địa phương làm hệ thống mương phai cấp nước, xây dựng các hầm, bể chứa, ủ phân phục vụ sản xuất...

Đến nay, các dự án trồng cây lúa nước, cây ngô lai, sắn cao sản... của Đội sản xuất số 4 đã cho năng suất trung bình cao gấp đôi so với phương pháp truyền thống của địa phương nên bà con rất an tâm, phấn khởi, tích cực thâm canh, tăng vụ trên chính ruộng nương của mình. Đồng bào không còn di, dịch cư tự do, đốt nương làm rẫy, cái đói nghèo dần được đẩy lùi. Ngoài ra, Thượng tá Vang còn chỉ đạo Đội sản xuất thực hiện dự án nuôi bò theo nhóm hộ, hướng dẫn kỹ thuật nuôi nhốt gia súc, gia cầm, nuôi cá, hướng dẫn quy trình trồng và chăm sóc cây ăn quả, trồng rau quanh bếp, quanh vườn; phối hợp với cấp trên định kỳ khám bệnh, cấp thuốc miễn phí cho đồng bào, vận động bà con thực hiện nếp sống vệ sinh, phòng trừ dịch bệnh. Trong hành trình “an dân”, anh và đồng đội đã làm trọn chức năng của một kỹ sư nông, lâm nghiệp, bác sĩ thú y, cán bộ dân vận, y tá thôn bản… được bà con rất mực yêu mến, tin cậy.

Chia tay anh khi mặt trời gác núi, con sông Mã hiền hòa ôm ấp những rừng cây. Trong gió ngàn lồng lộng, tiếng Thượng tá Trần Văn Vang thì thầm sâu thẳm: “Tôi tình nguyện mang trái tim mình sẻ chia hai nửa. Sau này, khi lớn lên, tôi mong các con tôi sẽ hiểu và ủng hộ cách nghĩ, cách làm của tôi”.

Bài và ảnh: Trương Văn Định