Khi thành phố Việt Trì-thành phố ngã ba sông xuất hiện một nghĩa trang mới trên đồi cây bạch đàn rợp lá xanh tươi, ai cũng nghĩ rằng đây là nghĩa trang liệt sĩ. Nhưng không phải. Tổ quy

Lễ nhập mộ các chiến sĩ Trung đoàn 96, Sư đoàn 305. Cựu chiến binh Trần Văn Bé đứng thứ hai từ phải sang.

tập mộ, sau nhiều năm lặn lội đã tìm kiếm cất bốc được 59 phần mộ của cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 305 miền Nam tập kết từ trần không có thân nhân. Nghĩa trang nhỏ mà chất chứa năm bảy mối tình: Tình nghĩa đồng đội, tình nghĩa quê hương, tình nghĩa Bắc-Nam, tình nghĩa hậu phương tiền tuyến...

Tiếp theo tiếng chuông cửa reo là tiếng gọi quen thuộc của anh nhân viên bưu điện “mời ông nhận thư bảo đảm”. Ai gửi thư cho mình đây nhỉ?”. Câu hỏi ấy liền được giải đáp sau khi tôi đặt bút ký vào sổ phát thư.

Người gửi: Trần Văn Bé, Trưởng ban liên lạc truyền thống Cựu chiến binh Sư đoàn 305 khu vực tỉnh Phú Thọ. Tôi thoáng nghĩ: Lính Sư đoàn 305 đông lắm, mình cũng chỉ mới biết tên anh, người có cái tâm cao đẹp qua câu chuyện xây dựng nghĩa trang An Thái-nghĩa trang của cán bộ, chiến sĩ miền Nam tập kết từ trần không có thân nhân, không ai hương khói. Thư anh viết không ngay hàng kẻ, nét chữ run run. Đoán biết: Tay anh đã yếu, mắt anh đã mờ.

Anh viết: “Anh Trọng kính mến!

Anh là ai? Có phải đồng chí, đồng đội với tôi không? Sao mà tâm tính giống nhau thế. Tin cho anh biết, nghĩa trang đã khánh thành, quy tập được 53 phần mộ, nhưng vẫn còn lúng túng. Chiều hôm qua nhận được thư anh. Rất phấn khởi vui mừng vì có đồng đội trợ sức. Trên này anh em xin được 115 triệu đồng, chi tiêu hết rồi mà công việc vẫn chưa xong. Đề nghị với anh dưới Hà Nội, anh xin đồng hương miền Nam mỗi người 10 nghìn đồng để cất bốc về tiếp 6 mộ nữa vừa mới tìm thấy. Hôm nào làm lễ di dời đợt hai, mời các anh về thắp cho đồng đội của mình một nén hương thơm…”.

Nghe những người dự lễ trầm trồ khen ngợi, cựu chiến binh Trần Văn Bé trạc tuổi 80, mặc bộ quân phục cũ bạc màu, mang quân hàm đại úy, nói tiếng Quảng Ngãi, chất phác kể: Hồi tưởng lại hơn 50 năm về trước, tuân lệnh Bộ Tổng tư lệnh, từ chiến trường Liên khu 5 anh dũng, chúng tôi quyến luyến tạm biệt đồng bào và người thân xuống tàu tập kết ra Bắc, lên từ cửa biển Sầm Sơn. Sau đó, đóng quân ở Nông Cống, Tĩnh Gia, Thanh Hóa, rồi làm nhiệm vụ chống địch cưỡng ép di cư vùng công giáo Bùi Chu, Phát Diệm. Tiếp đến, chuyển xuống Tiền Hải, Thái Bình. Cuối cùng hành quân lên vùng trung du Phú Thọ.

Chúng tôi ra sức luyện quân, mặc cho mùa đông trời rét như cắt da, mùa hè nóng như đổ lửa, mong ước có ngày trở về giải phóng quê hương miền Nam yêu dấu.

Với tâm tư trĩu nặng “ngày Bắc, đêm Nam”, Trần Văn Bé bịn rịn chia tay người vợ hiền mới cưới, gia nhập đoàn quân Nam tiến của Sư đoàn 305, xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước. Cụ còn nhớ như in, ngày đi “B” ấy vào cuối đông năm 1960. Số còn lại được bố trí làm nhiệm vụ xây dựng hậu phương lớn miền Bắc. Trong tiếng máy rộn rã, họ hòa nhập vào Nhà máy chè Phú Thọ, Nhà máy giấy Việt Trì, Nông trường Đồng Vàng, Nhà máy gang thép Thái Nguyên…

Đánh thắng giặc Mỹ rồi, Trần Văn Bé trong số ít còn được về sống hạnh phúc bên vợ, bên con trên quê hương thứ hai của mình sau 15 năm xa nhà đi chiến đấu ở chiến trường ác liệt.

Hỏi thăm lại những anh em cùng Sư đoàn hồi nào xa nhau, kẻ Nam người Bắc, bây giờ ai còn ai mất: “Rất buồn! Các bạn chưa kịp lập gia đình thì đã nằm xuống trong lòng đất mẹ. Mồ mả các bạn ở đồi chè có, đồi cọ có, ở góc ruộng có, bãi sông có, nhiều ngôi mộ thậm chí bị trâu bò giẫm nát. Có ngôi mộ gió mưa xói mòn đã sụp thành hố. Xót ruột lắm các đồng chí ạ!”.

Trần Văn Bé đề xuất: Phải đưa anh em đang nằm hẻo lánh, rải rác khắp các huyện Thanh Sơn, Thanh Ba, Lâm Thao, Phù Ninh về yên nghỉ một chỗ, để cho anh em mình, hoặc có thân nhân nào trong Nam ra thăm cũng có chỗ nhang khói thuận tiện. Ý muốn là vậy, nhưng lấy tiền đâu ra mà làm? Buổi đầu cụ Bé gọi vài người bạn thân tâm huyết, ăn cơm nhà, bỏ tiền túi, đi dò tìm thông tin mồ mả, xác định danh tính, bản quán của những người bạn quá cố.

Còn rất nhiều việc phải làm tiếp theo, thật không đơn giản chút nào. Cụ nghĩ, thiếu tiền thì không thể làm được, bây giờ phải lo chạy kinh phí.

Chúng tôi đến trình bày với đồng chí Thiếu tướng Nguyễn Hiền, Ủy viên Ban Chấp hành Hội CCB Việt Nam, Chủ tịch Hội CCB tỉnh Phú Thọ. Đồng chí ủng hộ ngay nghĩa cử cao cả này. Tỉnh ủy, UBND tỉnh Phú Thọ cho đây là bài học giáo dục sâu sắc truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây”. Tỉnh sẵn sàng hỗ trợ 100 triệu đồng. Sở LĐTBXH tạo mọi điều kiện cho chúng tôi triển khai ý tưởng của mình.

Thấy khối việc quá sức, có người phân vân: Các bác già yếu, liệu có làm nổi không?

Cựu chiến binh Phạm Văn Nối tự tin nói chắc như đinh đóng cột rằng: “Tuổi chúng tôi già, nhưng chí chúng tôi không già”. Vì tình đồng đội, tình quê hương, dù khó khăn mấy cũng làm. Tổ tìm kiếm, cất bốc vỏn vẹn có 7 người, chỉ có một xe máy, còn là xe đạp, mà xe đạp thì nát hết rồi, sáng đi chiều vá, chiều đi sáng vá. Vậy mà, chúng tôi không ngại cực nhọc, bất chấp mưa dầm gió bấc, suốt mấy năm liền lặn lội khắp các xóm làng, núi đồi Phú Thọ. Địa phương nào trước đây có dấu chân chiến sĩ Sư đoàn 305 là chúng tôi tìm đến. Hễ ở đâu báo tin về “có mộ” là chúng tôi lọc cọc đạp xe đến. Có những đợt xuyên rừng, lội suối vất vả kéo dài nhiều ngày, cụ Bé chân mỏi, gối chùng mà không một lần bỏ cuộc. Cụ nói: “Tìm thấy hài cốt đồng đội là tụi mình khỏe lên thôi”.

Đài phát thanh truyền hình tỉnh Phú Thọ phát hành phim phóng sự truyền hình “Hành hương đi tìm đồng đội”, làm lay động lòng người. Hình ảnh hai CCB cao tuổi mệt lả, chui ra khỏi khu vực đào bới cất bốc, nặng nề bê chiếc tiểu phủ cờ đỏ thắm-là linh hồn của bạn, cố nâng nhẹ nhàng, đặt nó lên “pót-ba-ga” xe đạp, rồi xúm nhau hì hục chở đi, người đi sau hai tay vịn giữ, người đi trước nắm ghi đông dắt xe chệnh choạng leo qua đồi cao gồ ghề suýt đổ ngã… Ai thấy cảnh tượng này cũng khâm phục và thương cảm. Tiếng lành ngày càng vang xa. Từ đó, những cuộc điện thoại chốc chốc gọi đến cụ Bé ở căn nhà đơn sơ số 185, tổ 10, khu 2 Việt Thắng, phường Văn Miếu, thành phố Việt Trì, bày tỏ nguyện vọng được cùng nhau chia sẻ gánh nặng nghĩa tình. Đứng đầu danh sách là Công ty Xi măng Hữu Nghị; thứ đến là Công ty chè Phú Đa, Xí nghiệp Sông Lô, Cảng Than; nhà hàng Công thương phía Nam và hàng chục doanh nghiệp khác tặng tiền làm việc nghĩa.

Mấy CCB nghèo không đóng bằng tiền, bằng bạc mà gửi tặng “cố chiến hữu” của mình chiếc tiểu sành sứ nho nhỏ, gọi là chút tình thơm thảo.

Cụ Bé còn công phu vận động được anh Ngô Công Định-một doanh nhân trẻ vào việc xây dựng nghĩa trang. Trong công việc làm ăn, anh Định hết sức kiêng kỵ. Thế mà cũng thật lạ, nhà anh là nơi tập kết hàng chục bộ hài cốt. Anh không sợ rủi ro, đen đủi cho doanh nghiệp của mình. Anh nói: “Cháu cũng là con em miền Nam, cháu coi các chú, các bác ấy như là cha chú của mình, chớ ai đâu mà phải kiêng cữ. Nhà cháu có mặt bằng, có phương tiện giao thông. Trong dòng họ, cháu là “vai trên”, cháu cho tạm nghỉ kinh doanh, động viên con cháu giúp sức làm cho mau xong nghĩa trang”.

Nơi cửa Phật, sư thầy Nghiêm chùa Đại Bi, sư thầy Thích Đàm Nhã cũng động lòng từ bi bác ái, cổ động thêm các nhà tu hành tham gia việc thiện.

Biết bao tấm lòng vàng, biết bao công sức đã tạo dựng nên nghĩa trang đẹp đẽ này. Ai cũng cảm thấy rất hài lòng.

Các đồng chí lãnh đạo tỉnh Phú Thọ có một đánh giá so sánh thú vị: Việc quy tập mộ liệt sĩ là cả hệ thống chính trị cùng làm… có ngân sách nhà nước đài thọ, mà khi làm cũng còn thấy khó khăn, huống hồ cụ Bé quy tập mồ mả đồng đội với hai bàn tay không. Vậy mà cụ làm được, quả thật là đáng khâm phục.

Qua hai lần mời cụ phỏng vấn truyền hình về chương trình “Những gương mặt đời thường”, nhiều người biết đến “Ông Bé 305”, người có công đầu quy tập mồ mả đồng đội.

Cụ Trần Văn Bé cùng các CCB Sư đoàn 305 thì mãn nguyện, vui mừng trong nước mắt.

Lễ cầu siêu khói hương nghi ngút trong bầu không khí trang nghiêm, đầy xúc động, nguyện cầu linh hồn các bạn siêu thoát về yên nghỉ vĩnh viễn tại nghĩa trang An Thái-nghĩa trang “Tình nghĩa” tại thành phố Việt Trì-thành phố lễ hội của đất Tổ Hùng Vương.

LÊ VĂN TRỌNG