QĐND - Vai khoác ba lô, tay dao, tay cuốc, một con chó, một cặp heo giống… hành trang của anh sĩ quan trẻ đi khai khẩn vùng sơn cước lập nghiệp chỉ có thế. Ngày đầu tiên dựng lán ở rừng, nồi cơm nấu chưa kịp ăn thì đã bị kẻ xấu nào đó lẻn vào… xơi mất. Tìm hiểu mới vỡ lẽ, “kẻ trộm” là một con… heo rừng. Thấm thoắt, mới đó mà đã gần ba mươi năm!
Từ “bà đỡ” của cá trắm Nam Bộ…
Đại tá Nguyễn Hải Đăng, Giám đốc Nông trường Đồng Sen (Quân đoàn 4) không thuộc tuýp người hài hước. Bởi thế, câu chuyện mà anh kể cho chúng tôi nghe về những ngày đầu vác cuốc, cầm dao đi khai khẩn, lập khu tăng gia sản xuất cải thiện đời sống cho bộ đội, cứ diễn ra mộc mạc, chân chất. Gần ba mươi năm gắn bó với vùng sơn cước miệt rừng Phú Giáo (Bình Dương) này, nắng gió và cuộc sống bà con nơi đây đã tạo cho anh một phong thái như một già làng người dân tộc S'Tiêng chính hiệu. Da đen cháy, giọng nói chậm rãi, thật thà, chất phác, như cây trên đồi, như nước dưới thung...
Ở miền sơn cước này, anh là người nổi tiếng. Đồng bào các dân tộc thiểu số gọi anh là cán bộ. Còn làng công nhân cao su xứ rừng này thì coi anh như một vị “trưởng tộc” của họ. Ấy là bởi dấu ấn của anh trong đời sống người dân nơi đây thực sự sâu đậm. Cũng bởi thế nên khi được Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 giới thiệu, ngược gần trăm cây số để đến tìm gặp anh, chúng tôi muốn nghe, muốn biết tường tận hơn về cuộc hành trình gần ba thập kỷ của vị “thổ công” miệt rừng. - “Bữa đó vào khoảng cuối năm 1982, Thủ trưởng Quân đoàn gọi mình lên, bảo: Đời sống bộ đội đang khó khăn, chúng ta cần góp sức kiến thiết, đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống. Cậu lên Phú Giáo xây dựng cơ sở trên đó dần đi. Thế là lên đường. Mình phụ trách một tổ 3 người, gồm anh Giang và anh Hiển, ngược đường lên rừng. Hành trang mang theo chỉ có một ba lô lương thực, thực phẩm, dụng cụ khai hoang, một con chó và cặp heo giống” – Đại tá Đăng nhớ lại.
 |
Đại tá Nguyễn Hải Đăng (bên trái) cùng công nhân tại điểm tập kết mủ cao su. |
Thời chiến tranh, cách trụ sở Nông trường Đồng Sen hôm nay chừng 3km về phía đông là một căn cứ quân sự - sân bay dã chiến của Mỹ. Ở khu vực này, giữa bạt ngàn những cánh rừng có một thung lũng nhỏ. Giữa thung lũng có một hồ nước. Giữa hồ nước có một khóm sen. Khi đến đây khai hoang, tổ sản xuất của anh cán bộ trẻ Nguyễn Hải Đăng đã chăm bón, nhân giống cho khóm sen nảy nở, phát triển, tạo một hình ảnh thật thơ mộng và lãng mạn ở vùng sơn cước. Cái tên Đồng Sen được đặt cho nông trường sau này được anh Đăng lấy từ ý tưởng của cái hồ sen giữa rừng ấy.
Nguyễn Hải Đăng gắn bó với công việc nuôi trồng như một duyên nghiệp. Sau khi tốt nghiệp Trường Trung cấp Nông nghiệp, chuyên ngành chăn nuôi ở Thái Bình, anh tình nguyện nhập ngũ khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước sắp đến ngày toàn thắng. Với vốn kiến thức được trang bị cùng với niềm đam mê của bản thân, anh được đơn vị (Sư đoàn 341) giao nhiệm vụ phụ trách công tác tăng gia sản xuất. Tháng 5-1975, khi cùng đơn vị tiếp quản Kho tiếp vụ ở Sài Gòn, Nguyễn Hải Đăng mừng như bắt được vàng khi phát hiện trong trại chăn nuôi ở đây có đàn heo lai năng suất cao. Trong lúc cán bộ, chiến sĩ ta xúm lại mổ heo chiến lợi phẩm để ăn mừng chiến thắng thì anh Đăng xin được giữ lại mấy con heo đực. Anh đem về nhân giống ở trại chăn nuôi của đơn vị đặt tại khu Long Bình (Đồng Nai). Trên cương vị Trại trưởng Trại chăn nuôi tổng hợp, anh đã phát triển thành công đàn heo lai lên đến hàng trăm con, cung cấp nguồn giống cho các đơn vị bạn phát triển chăn nuôi, cải thiện đời sống.
Tiếp đó, Nguyễn Hải Đăng trở thành nhân vật của báo chí khi anh là người đầu tiên ở Nam Bộ thể nghiệm và áp dụng thành công phương pháp cho cá trắm sinh sản tại các ao nuôi. Thời kỳ đó, nguồn cá trắm giống phải đưa từ các địa phương phía Bắc vào, do khí hậu miền Nam không đáp ứng yêu cầu sinh sản của giống cá này. Việc cho cá trắm đẻ, đảm bảo trứng nở thành cá con đòi hỏi nhiệt độ của nước trong ao nuôi phải đáp ứng yêu cầu chuyên môn. Trong lúc đó, do thời tiết Nam Bộ nắng nóng nên quá trình sinh sản, trứng cá sẽ bị ung hoặc bị kích thích nở sớm, khiến cá con bị chết ngay sau khi nở. Sau một thời gian nghiên cứu, Nguyễn Hải Đăng đã tìm ra phương pháp làm giảm nhiệt độ của nước trong ao nuôi bằng cách đặt đường ống dẫn nước “âm” dưới suối, tạo luồng chảy trong ao. Anh sử dụng não thùy tiêm vào cá để kích thích cá đẻ và nở đúng quy trình. Phương pháp của Nguyễn Hải Đăng ngay sau đó đã được ngành nông nghiệp các địa phương áp dụng, nhân rộng, tự đảm bảo được nguồn giống tại chỗ, tiết kiệm được một khoản lớn từ chi phí vận chuyển nguồn giống từ miền Bắc vào. Báo chí lúc bấy giờ đã gọi anh là “bà đỡ” đầu tiên của cá trắm giống ở Nam Bộ.
...đến “thổ công” miệt rừng
Bây giờ thì trước mặt chúng tôi, nơi ngày xưa anh cán bộ trẻ Nguyễn Hải Đăng cùng tổ sản xuất bổ những nhát cuốc đầu tiên khai hoang lập nghiệp, là những cánh rừng cao su xanh thẫm. Cuối mùa mưa, trời Tây Nguyên se se lạnh. Cao su vào mùa thu hoạch, không khí ở rừng như ngày hội. Đại tá Nguyễn Hải Đăng xắn quần móng lợn lội phăm phăm dọc con đường đất đỏ dẫn khách đi tham quan các lô cao su. Giữa những cánh rừng là các điểm trạm tập kết mủ cao su sau thu hoạch của công nhân. Đến giờ nghỉ trưa, anh Đăng mời chúng tôi cùng vui với anh chị em công nhân bữa cơm cặp lồng. Các đồng chí trong Ban giám đốc cùng anh chị em công nhân và nhà báo quây quần bên nhau thưởng thức bữa cơm “dã chiến”, không khí ấm cúng như một gia đình. Mô hình bữa cơm cặp lồng được Nông trường Đồng Sen áp dụng từ hơn 3 năm nay, nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và tiết kiệm chi phí cho công nhân. Theo đó, thay vì công nhân phải tự túc lo bữa ăn, Nông trường đã tổ chức nấu cơm tập thể, chia vào các cặp lồng cho công nhân mang vào rừng ăn trưa. Từ Ban giám đốc cho đến anh chị em công nhân đều chung một khẩu phần ăn như nhau. Trong bữa cơm ấm cúng, những câu chuyện kỷ niệm một thời gian khó được dịp ôn lại. Mấy bác công nhân đã luống tuổi phá lên cười khi cùng giám đốc nhắc lại chuyện ngày xưa...
Ngày đầu khai khẩn vùng đất này, tổ sản xuất của anh Đăng phải chặt cây rừng dựng nhà tạm để ở. Thú rừng ngày đó nhiều như heo thả rông. Cặp heo giống anh Đăng đem theo chả mấy chốc sinh sôi nảy nở thành đàn. Mấy con chó được huấn luyện để giúp chủ làm công việc chăn heo, thế nhưng vẫn không tránh khỏi việc heo nhà bị thú rừng ăn thịt. Công việc nhiều, anh em nấu cơm một lần ăn hai bữa. Có nhiều lần quên không kịp treo nồi lên lán là bị heo rừng vào “cướp” mất.
Trung tướng Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Văn Thành, Phó Tổng Tham mưu trưởng, người có nhiều năm giữ cương vị Tư lệnh Quân đoàn 4, đã dành những tình cảm trân trọng khi nói về người cán bộ thuộc quyền thân thiết trong nhiều năm: “Anh Đăng là người có tâm huyết và đam mê với công việc, càng những lúc khó khăn, anh càng thể hiện ý chí quyết tâm, làm cho bằng được. Nếu không có anh Đăng, Quân đoàn 4 sẽ không có được một Đồng Sen hôm nay”.
|
Đất cằn, đá sỏi, thời tiết khắc nghiệt, anh em bị mắc bệnh sốt rét liên miên. Vừa khai hoang trồng hoa màu, lương thực, anh em vừa xây lò gạch, tạo nguồn vật liệu xây dựng tại chỗ. Anh Đăng đón vợ và con nhỏ lên rừng. Xứ Đồng Sen trở thành quê hương thứ hai của anh từ đó. Diện tích khai hoang ngày một mở rộng. Chỉ hơn một năm sau ngày mở đất, một khu tăng gia sản xuất bề thế bao gồm cả trồng trọt, chăn nuôi và sản xuất gạch đã hiện diện. Nông trường Đồng Sen ra đời, lấy ngày 19-5-1984 làm ngày thành lập. Nguyễn Hải Đăng được giao nhiệm vụ làm Giám đốc nông trường từ đó. Nơi đây trở thành địa chỉ giải quyết công ăn việc làm cho người dân đồng bào dân tộc thiểu số ở địa phương và bộ đội phục viên, xuất ngũ. Qua nhiều lần thay đổi giống cây trồng, vật nuôi, biết bao phen dịch bệnh hoành hành, có nhiều giai đoạn cuộc sống khó khăn, gian khổ tưởng chừng khó vượt qua. Nhiều cán bộ sau khi được điều lên nông trường đã phải xin chuyển công tác, nhưng anh Đăng vẫn kiên cường bám trụ với Đồng Sen. Năm 1995, nông trường thực hiện một cuộc đột phá táo bạo, cải tạo và chuyển đổi toàn bộ diện tích tăng gia sản xuất sang canh tác cây cao su. Anh Đăng tự đi học và tìm mua tài liệu để nghiên cứu, tìm ra phương pháp trồng, chăm sóc, chữa bệnh cho cây cao su hiệu quả nhất. Và rồi sự “liều lĩnh” có tính toán của anh đã đi đến thành công. Cây cao su phát triển tốt trên nền đất đã được rửa phèn, cải tạo.
Xong bữa cơm trưa giữa rừng, chúng tôi theo Đại tá Đăng đi thăm làng công nhân. Những mái nhà xinh xắn, khang trang nằm yên bình dọc hai bên tuyến đường dẫn từ Tỉnh lộ 741 vào rừng. Con đường dài gần 3km này vừa được Nông trường rải nhựa, xe ô tô có thể vào tận ngõ mỗi nhà. Hiện Nông trường có hơn 450 công nhân, đều là con em đồng bào các dân tộc ở địa phương và bộ đội xuất ngũ. Làng công nhân được gọi theo địa danh hành chính là ấp Đồng Sen. 100% hộ gia đình đều có mức sống trung bình trở lên.
Gần ba thập kỷ gắn bó với Đồng Sen, Đại tá Nguyễn Hải Đăng bằng tâm huyết, niềm tin và trách nhiệm của mình, đã thực hiện một cuộc hành trình đi từ không đến có, từ nhỏ đến lớn. Nông trường và cá nhân anh vừa vinh dự được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng ba. Đồng Sen hôm nay không chỉ là khu tăng gia sản xuất của Quân đoàn 4 mà đã và đang được xây dựng trở thành một thiết chế trong khu vực phòng thủ, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc.
Bài và ảnh: THANH KIM TÙNG