QĐND - Những ngày tháng Tư, tôi gặp Thiếu tướng Lê Phi Long tại nhà riêng của ông ở đường Cửu Long, TP Hồ Chí Minh. Với một người lính cả đời trải qua trận mạc như ông, những ngày tháng Tư này thật đặc biệt, bởi trong ông, những kỷ niệm về trận chiến cuối cùng lại ùa về... Trong nhiều giờ đồng hồ trò chuyện với Thiếu tướng Lê Phi Long, tôi như đã theo chân ông, một sĩ quan của Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam, đi cùng từng bước tiến quân trong những ngày tháng 4-1975 lịch sử...
Học văn mà theo nghiệp võ
Cuộc đời của Thiếu tướng Lê Phi Long bản thân nó đã chứa đựng những điều kỳ lạ, tương ứng với những biến động dữ dội đã xảy ra với đất nước, với dân tộc trong suốt hơn nửa thế kỷ. Xuất thân trong một gia đình trung nông ở Hà Tĩnh, cơm ăn đủ ba bữa, ông Lê Phi Long có tư chất thông minh từ nhỏ. Năm ấy, cuộc thi vào Trường Lycée Khải Định (Quốc học Huế), ông là một trong ba học sinh người Việt thi đậu vào trường. Đó là ngôi trường mà một cấp trên sau này của ông Lê Phi Long cũng từng theo học, một người tên là Võ Nguyên Giáp...
 |
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Thiếu tướng Lê Phi Long. Ảnh tư liệu chụp lại
|
Trường Lycée Khải Định là trường trung học có hệ thống giáo trình dạy bằng cả hai thứ tiếng Việt và Pháp, nơi mà học sinh nói tiếng Pháp nhiều hơn tiếng Việt! Đó cũng là lý do khiến ông Lê Phi Long có một vốn tiếng Pháp cơ bản, dày dặn, đủ để ông có thể sử dụng rất hữu ích sau này.
Là trường chuyên đào tạo học sinh giỏi để sau này gia nhập hệ thống công chức của Pháp, thế nhưng Trường Quốc học Huế đã là nơi rất nhiều nhà cách mạng của Việt Nam từng theo học: Hồ Chí Minh, Trần Phú, Hà Huy Tập, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp... Cả ông Võ Nguyên Giáp lẫn ông Lê Phi Long, khi học trong trường, có lẽ đều để sau này ra đời làm những công chức dân sự bình thường. Thế nhưng thời buổi loạn lạc, đất nước phải gồng mình trong những cuộc chiến liên miên chống giặc ngoại xâm, hai ông đều theo nghiệp võ, trở thành những tướng lĩnh tham gia đánh giặc trong cuộc trường chinh của dân tộc...
Ông Lê Phi Long tiếp xúc với cách mạng lần đầu tiên khi Cách mạng Tháng Tám mùa thu 1945 thành công, hoạt động trong phong trào thanh niên ở Hà Tĩnh. Khi ấy, ông là một trong những thủ lĩnh thanh niên trẻ nhất hoạt động ở địa bàn miền Trung. Rồi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, năm 1947, ông Lê Phi Long nhập ngũ, theo nghiệp binh, chính thức trở thành một chiến sĩ trong đội quân của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Người anh em kết nghĩa phía bên kia
Kháng chiến chống Pháp, ông Lê Phi Long đã trải qua hầu hết các chiến dịch gian khổ, trong đó có Mặt trận Trị Thiên cực kỳ khốc liệt. Ông từng được cử sang Côn Minh (Vân Nam, Trung Quốc) học một năm về quân sự, năm 1952 về nước làm trung đoàn trưởng một đơn vị. Mang những hiểu biết quân sự ấy, ông được phân công dạy cho một đơn vị của Đại đoàn 308 phương pháp đánh công kiên. Ông kể: “Hồi ấy tôi đương trai tráng, khỏe lắm. Có lần làm mẫu cho anh em, ném cái thang dài 12m bắc qua bên kia hào vừa khít, ngon ơ!”.
Chiến dịch Điện Biên Phủ nổ ra đúng vào dịp ông Lê Phi Long về quê... cưới vợ. Khi tất tả quay lại đơn vị thì ông được giao nhiệm vụ chuẩn bị tham gia tiếp quản Thủ đô. Giỏi tiếng Pháp, ông được phân công làm đại diện của Quân đội Việt Nam bên cạnh Quân đội Pháp tham gia tiếp quản Thủ đô. Ông nhớ đã theo cánh quân của Trung đoàn 88, Đại đoàn 308, do Trung đoàn trưởng Nam Hà dẫn đầu tiến vào Thủ đô theo hướng Ô Chợ Dừa, đi dọc phố Huế, rẽ sang chiếm Nhà thương Đồn Thủy (Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 bây giờ), rồi hội quân ở ngay khu vực hồ Hoàn Kiếm...
Đất nước bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ông Lê Phi Long tiếp tục đảm nhiệm các cương vị công tác trong quân đội, đến năm 1967 thì về Cục Tác chiến. Trong Chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968, ông là trợ lý của chủ nhiệm một cánh quân và đến Chiến dịch Quảng Trị 1972, là cán bộ đốc chiến ở mặt trận.
Có một sự kiện trong chiến dịch 1972 ấy mà hầu như ai cũng biết, đó là một trung đoàn trưởng quân đội chính quyền Sài Gòn, Trung tá Phạm Văn Đính, đã dẫn nguyên một trung đoàn (phiên hiệu số 56, thuộc Sư đoàn 3 Bộ binh quân đội Sài Gòn) ở căn cứ Tân Lâm (Mỹ đặt tên là Carroll) ra hàng Quân Giải phóng. Để tác động vào tư tưởng của binh lính quân đội Sài Gòn, sự việc “đầu hàng” được chuyển thành “phản chiến” và Trung tá Đính (cùng Trung đoàn phó Vĩnh Phong) được giữ nguyên quân hàm trong Quân đội nhân dân Việt Nam! Và có một sự kiện ít ai biết là chính ngay ở Mặt trận Đường 9 năm ấy, ông Lê Phi Long, khi ấy là sĩ quan Cục Tác chiến tham gia chiến đấu ở mặt trận, đã có một lễ kết nghĩa anh em với ông Phạm Văn Đính! “Cho đến nay, vẫn chưa có ai xóa bỏ cái tình kết nghĩa anh em giữa tôi với ông Đính”-ông Lê Phi Long nói.
Cuộc hỏi cung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi
Đầu tháng 3-1975, khi đang tham gia chỉ huy một cuộc diễn tập ở Ninh Bình thì ông Lê Phi Long được Thiếu tướng Cao Văn Khánh, Phó Tổng tham mưu trưởng, lệnh về ngay Hà Nội. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã bắt đầu rồi...
Thiếu tướng Lê Phi Long kể: “Sau khi Chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi, Bộ Chính trị quyết định mở Mặt trận Quảng Đà, do anh Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh. Cục Tác chiến có nhiệm vụ theo dõi tình hình, bám sát các bước tiến quân của ta để kịp thời báo cáo về để Tổng hành dinh ra chỉ đạo. Ngày 24-3-1975, chúng tôi nhận lệnh cùng một nhóm cán bộ của Bộ Tổng tham mưu hành quân vào Nam. Trước đấy, một sở chỉ huy nhẹ đã được lệnh đi trước. Tôi với anh Lê Trọng Tấn đi máy bay vào Quảng Bình, sau đó tiếp tục đi ô tô vào Sở chỉ huy Đoàn 559, chỗ anh Đồng Sĩ Nguyên ở Bến Tắt, Quảng Trị”.
Lúc này, ông Lê Phi Long là Trung tá, Chủ nhiệm hướng Duyên Hải (hay còn gọi là cánh quân phía Đông) do tướng Lê Trọng Tấn chỉ huy, hành tiến đánh địch dọc theo trục bắc-nam, giải phóng các đô thị ven biển với mục tiêu cuối cùng là phối hợp với các cánh quân khác giải phóng Sài Gòn.
Đã không ít lần trực tiếp ra trận, nhưng không hiểu sao lần này, ông Lê Phi Long cảm thấy có một cảm giác lạ lùng cứ dâng lên trong lòng. “Nhiều năm làm ở Cục Tác chiến, kinh nghiệm cho tôi biết đây không giống những chiến dịch quân sự như trước mà chính là trận quyết chiến chiến lược, quyết định vận mệnh của cuộc chiến tranh giải phóng, thống nhất đất nước. Đòn đánh bất ngờ của ta vào Buôn Ma Thuột đã làm rung chuyển toàn bộ các hệ thống bố trí chiến lược của địch, làm chúng lúng túng, bị động, phạm sai lầm chiến lược. Tôi cho rằng, khi ta đã giải phóng Huế và Đà Nẵng thì có thể thấy là kết cục của cuộc chiến tranh đã được báo trước. Chỉ có nhanh hay chậm mà thôi”-ông kể.
Ngày 5-4, theo cánh quân Duyên Hải, nhóm cán bộ tác chiến của ông Lê Phi Long cùng với các cán bộ chỉ huy cánh quân phía Đông là các tướng Lê Trọng Tấn, Lê Quang Hòa, Nam Long vào đến Đà Nẵng vừa mới giải phóng. Tốc độ tiến quân của ta rất nhanh, các cán bộ tác chiến như ông Lê Phi Long thường phải đi trước các chỉ huy một chút để nghiên cứu chiến trường, đề xuất cách đánh, chuẩn bị mọi mặt cho trận đánh sắp tới như: Tiếp tế xăng dầu; bổ sung gạo, muối, thực phẩm; đặc biệt là cung cấp cơ số đạn dược đủ để bộ đội có thể tiến công liên tục.
Ngày 10-4, đoàn công tác của ông Lê Phi Long rời Quy Nhơn đi Nha Trang, khi đó đã được Sư đoàn 10 thuộc Quân đoàn 3 giải phóng từ trước. Sở chỉ huy cánh quân phía Đông áp sát Phan Rang, phòng tuyến phòng thủ từ xa của chính quyền Sài Gòn.
Ngày 14-4, quân ta nổ súng tấn công Phan Rang, hai ngày sau bắt sống Trung tướng 3 sao Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư lệnh tiền phương Quân đoàn 3 của chính quyền Sài Gòn. Ông Long kể lại: “Anh Tấn nói với tôi: Anh có cấp hàm trung tá nhưng tóc bạc, biết tiếng Pháp, nên đến hỏi cung hắn. Hắn là tướng cấp chiến lược nên cũng chỉ cần hỏi hắn hai câu thôi: liệu Tổng thống Thiệu có bị lật đổ không và nếu có thì ai thay thế? Liệu Mỹ có can thiệp khi ta đánh vào Sài Gòn không?”.
Cuộc hỏi cung diễn ra ngày 17-4 tại Gò Dầu, phía nam Diên Khánh, gần Nha Trang. Chính trong cuộc hỏi cung này, Trung tá Lê Phi Long đã moi được từ Nguyễn Vĩnh Nghi những thông tin cực kỳ quý giá cả về chiến lược lẫn chiến thuật, giúp cho Tổng hành dinh có thêm được cơ sở để ra quyết sách đúng đắn trước khi bước vào trận đánh cuối cùng.
Góp mặt vào trận cuối cùng
Sau khi xóa sổ tuyến phòng thủ Phan Rang của địch, cánh quân phía Đông do tướng Lê Trọng Tấn chỉ huy, có ông Lê Phi Long trong đội hình, tiếp tục hành tiến về hướng Sài Gòn, lần lượt xóa sổ các cứ điểm cố thủ của địch trên đường tiến quân và áp sát căn cứ Nước Trong, quận lỵ Long Thành, nằm ở phía đông nam Sài Gòn. Theo kế hoạch, Chiến dịch Hồ Chí Minh sẽ bắt đầu từ ngày 28-4, các đơn vị đồng loạt nổ súng tiến công mở màn cho chiến dịch. Tuy nhiên, trên hướng Đông, quân địch bố trí các cứ điểm dày đặc để cản bước tiến quân ta, đồng thời trên đường hành quân phải vượt qua hai sông lớn là sông Đồng Nai và Sài Gòn, địa hình phức tạp. Vì vậy, Tư lệnh cánh quân phía Đông Lê Trọng Tấn quyết định đề nghị với Bộ chỉ huy chiến dịch cho phép cánh quân phía Đông được nổ súng sớm trước hai ngày, từ 26-4, để kịp phối hợp với các cánh quân khác tổng công kích vào Sài Gòn. Trung tá Lê Phi Long được lệnh trực tiếp của tướng Lê Trọng Tấn cử về Bộ chỉ huy chiến dịch ở Lộc Ninh báo cáo về đề xuất này.
Vậy là ông Long lên một chiếc xe có một người bảo vệ đi theo, từ Sở chỉ huy của tướng Lê Trọng Tấn, cắt rừng đi về Bộ chỉ huy chiến dịch. Ông Long kể: “Từ ngã ba Giầu Dây, tôi đi theo Đường 20, bị lạc đường một đoạn, phải quay lại Tân An, vòng qua hồ Trị An rồi từ đó đi xe honda do một anh thanh niên lái, tới khoảng 1 giờ 30 phút sáng 25-4 thì đến Lộc Ninh. Đến 7 giờ sáng, tôi vào báo cáo anh Lê Đức Thọ, khi ấy là phái viên Bộ Chính trị đang ở đó và các anh Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng... Sau khi nghe đề xuất của cánh Đông, thấy không ảnh hưởng gì đến kế hoạch chung và để bảo đảm tính đồng bộ trong nổ súng tổng tấn công vào nội thành Sài Gòn, các anh ấy đồng ý với đề xuất của cánh quân phía Đông”.
Vậy là 17 giờ ngày 26-4, tiếng súng mở màn Chiến dịch Hồ Chí Minh đã vang lên ở hướng Quân đoàn 2, nhằm vào các mục tiêu: Căn cứ Nước Trong, chi khu Long Thành, chi khu Đức Thạnh..., phát triển về hướng Bà Rịa. Những ngày sau đấy, cánh quân phía Đông vượt cầu Sài Gòn, đánh thẳng vào nội đô. Ngày 30-4, Lữ đoàn Tăng-Thiết giáp 203 của Quân đoàn 2 cánh Đông là đơn vị đầu tiên tiến vào dinh Độc lập, cắm lá cờ lên nóc dinh, đánh dấu sự kết thúc cuộc chiến tranh ba mươi năm.
Trong giờ phút ấy, ông Lê Phi Long đang ở Sở chỉ huy chiến dịch tại rừng Ông Quế, gần thị xã Xuân Lộc. Những bước chân của người chiến binh sau gần ba mươi năm cuối cùng đã tới đích, ngay nơi hang ổ kẻ thù. Hỏi ông nghĩ gì trong giờ phút ấy, ông ngồi lặng, rồi nói: “Lúc ấy chỉ có cảm giác nhẹ tênh. Tôi nghĩ về những đồng đội đã nằm xuống dọc đường tiến về Sài Gòn trong suốt những năm trước đó. Họ đã không thể có mặt cùng tôi trong ngày vui đại thắng, nhưng Chiến thắng 30-4 là dành cho họ, những người đã hiến dâng cuộc sống của mình cho ngày thắng lợi cuối cùng!”.
Bài và ảnh: YÊN BA