Vào những năm 20 của thế kỷ trước, Đinh Ngọc Liên là chàng thanh niên công giáo hiền lành, tài hoa, mê vẽ, từng chơi nhạc trong các xứ đạo; thấy tù túng, không tìm được hướng đi cho cuộc đời, đã từ đất quê Phú Nhai, Giao Thủy, Nam Định lên Hà Nội, như ông kể đấy là dấn thân “vào đời”. Lúc đầu, ông định thi vào Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương nhưng không đủ tiêu chuẩn. Nguyện vọng đầu tiên nhanh chóng tan vào hư không. Ít đồng bạc giắt lưng lên chốn thị thành chẳng duy trì được bao lâu, những bước chân đầu tiên “vào đời” của ông bước đi trong bế tắc như nhiều thanh niên cùng thời khi đó.

leftcenterrightdel
NSND Đinh Ngọc Liên (bên phải) và nhạc sĩ Văn Cao. Ảnh tư liệu. 

Đang ngao ngán chưa tìm được lối ra thì ông được một người quen mách cho vào một chân trong đội kèn lính khố xanh. Trong lòng phân vân, đăng lính không phải nghề được mọi người quý trọng, thậm chí còn bị căm ghét… nhưng rồi ông chợt nghĩ, hoàn cảnh đang bế tắc, mà lính kèn chỉ chơi nhạc, không phải nhũng nhiễu dân nên có thể chấp nhận được. Với năng khiếu của mình, lại đã được tôi luyện trong các nhóm nhạc ở quê, việc vượt qua những khâu thử tuyển tài nghệ đối với ông chẳng khó khăn gì nhưng cũng phải làm cái lễ tạ người ta đã chấm cho mình bằng hiện vật đáng giá gần 30 đồng (thời đó, 6 đồng 1 tạ gạo). Trở thành lính kèn, trút bỏ bộ áo the khăn xếp, ông khoác lên người bộ quần áo vàng có cái khố xanh giắt ngoài cái quần lá tọa, chân quấn xà cạp xanh nhưng đi đất. Lính khố xanh là lính bản xứ nên nhất thiết phải đi đất, khác với lính khố đỏ là lính thuộc địa, được đi giày… Vừa trở thành lính kèn, một nỗi buồn đã xâm chiếm lòng ông khi biết mình đang ở nấc thang cuối cùng của xã hội trong bộ đồ lính của thực dân. Với bản tính hiền lành của người có đạo, đôi chút nhút nhát nhưng chăm chỉ, cần cù và đặc biệt là có năng khiếu âm nhạc hơn người, ông được nhạc trưởng người Pháp kèm cặp và tin tưởng. Từ nhạc công, ông được làm nhạc trưởng, được lên chức quản, đã là một loại “quan”, quan quản kèn... Những tưởng thế cũng là mãn nguyện, nhưng thật không ngờ, ông quản kèn vẫn thường xuyên "được" quan Tây "tặng" cho những cái bạt tai, đá đít hoặc nhiếc mắng, miệt thị. Sự ấm ức, nỗi nhục nhã, u mê bao phủ trong đời sống đội kèn lính khố xanh. Càng ngày, nỗi u uất ấy càng hiện lên nặng nề hơn trong tâm trí người quản kèn, mà ngày đó trong đời sống âm nhạc ở Hà Nội, người ta đã biết đến cái tên “ông quản Liên”. Rồi Nhật đảo chính Pháp, Đội kèn lính khố xanh được đổi thành Đội kèn bảo an binh, ông được khoác lên người cái chức “âm nhạc thái chủ” để chỉ huy đội kèn ấy. Cuộc sống không những chẳng khá lên mà nếu có sơ suất gì, ông được nhận ngay một đòn báng súng của những ông chủ mới.

Thế rồi tháng 8-1945, lần đầu tiên ông nhìn thấy khẩu hiệu “Đánh Pháp, đuổi Nhật” trên đường phố Hà Nội và nhất là lá cờ đỏ lớn buông kín mặt tiền Nhà hát Lớn thành phố vào sáng 17-8, một điều gì đó mới mẻ hình thành trong ông. Ngay đêm đó, ông cùng 6 quan quản khác được gặp đại diện Việt Minh đến phổ biến về tình hình đất nước và kêu gọi ủng hộ cách mạng hoặc không chống đối cách mạng. Ngày 19-8, Hà Nội tràn ngập cờ đỏ sao vàng, quân cách mạng và quần chúng đã chiếm phủ Khâm sai, ngoài cổng trại Bảo an binh, binh lính trong đó có lính kèn đã mở toang cánh cổng đón đoàn quân và quần chúng cách mạng ùa vào chiếm doanh trại. Sáng 20-8, đại diện chỉ huy của cách mạng, đồng chí Vương Thừa Vũ đến nói chuyện với binh lính trong trại, với đội kèn, đồng chí nói: Nhạc binh rất cần cho quân đội, cho đất nước. Anh em có sẵn lòng yêu nước, nếu đồng ý gia nhập hàng ngũ cách mạng, đội kèn được giữ nguyên và bắt đầu từ hôm nay mang tên Ban Âm nhạc Giải phóng quân. Ông quản Liên cùng anh em đội kèn được lời như cởi tấm lòng, hoan hỉ nhập vào đội quân cách mạng. "Đội kèn lính khố xanh"-"Đội kèn bảo an binh" trở thành đơn vị âm nhạc đầu tiên của cách mạng- Ban Âm nhạc Giải phóng quân, tiền thân của Quân nhạc Việt Nam lớn mạnh sau này. Con đường đi tới đã rộng mở, ông quản Liên được giao nhiệm vụ nhạc trưởng và chỉ huy Ban Âm nhạc Giải phóng quân. Vốn liếng các ông mang theo là sự giác ngộ, nhiệt huyết và tiếng kèn, tiếng trống phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.

Ngày mới đã mở sau những đêm dài trước đó. Ban Âm nhạc Giải phóng quân dưới sự chỉ huy của nhạc trưởng Đinh Ngọc Liên sống trong bầu không khí rạo rực, mọi người hồ hởi bắt tay vào công việc của cách mạng. Việc đầu tiên là dàn nhạc phải gấp rút dàn dựng những ca khúc cách mạng do các nhạc sĩ yêu nước sáng tác trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, đã trở thành quen thuộc trong đời sống văn hóa tinh thần và có tác dụng tuyên truyền trong phong trào cách mạng... Nhạc trưởng Đinh Ngọc Liên gấp rút hòa âm phối khí những bản nhạc đó. Giai điệu của những "Cùng nhau đi hồng binh", "Tiến quân ca", "Diệt phát xít", "Du kích ca"... được dàn nhạc kèn hòa tấu vang vang trong doanh trại, vang vang trên các đường phố Hà Nội, có sức lan tỏa lớn. Sự kiện lớn đầu tiên diễn ra vào ngày 30-8-1945. Sau gần 10 ngày củng cố và gấp rút chuẩn bị, Ban Âm nhạc Giải phóng quân đã biểu diễn trong Lễ ra mắt Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội do bác sĩ Trần Duy Hưng làm Chủ tịch. Ngay sau đó, ngày 31-8, đoàn nhạc binh lại biểu diễn tại Gia Lâm đón hai chi đội Giải phóng quân từ chiến khu về Hà Nội. Lần đầu tiên, người dân Hà Nội được tận mắt nhìn thấy đội quân nhạc của mình uy nghi, đồ sộ, vừa đi vừa diễn tấu trên đường mà tràn ngập niềm tin tưởng, tự hào. Nhạc trưởng Đinh Ngọc Liên và anh em nhạc công trong hàng quân càng phấn chấn, tự hào hơn, ai ai cũng cảm thấy hãnh diện vì mình đã là những người chủ thực sự, những chiến sĩ thực thụ qua những đóng góp âm nhạc của mình. Những ngày này, Ban Âm nhạc Giải phóng quân đã được đổi tên thành Ban Âm nhạc Vệ Quốc quân, làm việc không kể giờ giấc mới đáp ứng được nhiệm vụ, từ phục vụ các buổi mít tinh, các buổi lễ, những buổi hòa nhạc tại vườn hoa Chí Linh, Bách Thảo, hòa nhạc các tối trong Nhà hát Lớn, biểu diễn ở đài phát thanh phục vụ các buổi lên sóng, dạy hát ở trụ sở Hội Phụ nữ cứu quốc, ở tòa thị chính, dạy hát cho thiếu nhi ở khu phố… Trong thời gian này, phong trào quần chúng rất sôi động, những đợt diễu hành, mít tinh thường xuyên diễn ra nhưng thấy bà con đi trong đội ngũ như đi chợ, không đều, không khỏe, nhạc trưởng Đinh Ngọc Liên nghĩ phải làm cách nào để bà con đi đúng nhịp cho có khí thế. Ông soạn ra bài "Hành khúc trống Vệ Quốc đoàn" gồm 16 nhịp giản dị rồi cho anh em nhạc công đi phổ biến khắp các đội trống nhi đồng, nhịp trống ấy được phổ cập dễ dàng, nhanh chóng đi vào đời sống, mỗi lần nhịp trống nổi lên, mọi người đi vào hàng ngũ, đều rầm rập khí thế. Sau này, 16 nhịp trống ấy được phổ biến khắp nơi một cách tự nhiên, mọi người quen gọi là trống ếch như là một sản phẩm âm nhạc dân gian, ít ai biết được tác giả của nó là nhạc trưởng Đinh Ngọc Liên, người chỉ huy đầu tiên của Quân nhạc Việt Nam.

Và rồi sự kiện lịch sử lớn lao bậc nhất đã đến, buổi chiều 2-9-1945, Ban Âm nhạc Vệ Quốc quân tề chỉnh trước lễ đài tại Quảng trường Ba Đình, đội hình khá đồ sộ so với lúc bấy giờ với 75 người trong đội ngũ oai phong, kèn đồng sáng loáng. Nhạc trưởng Đinh Ngọc Liên đứng trước hàng quân, hướng thẳng lên lễ đài, hồi hộp chờ đợi để được thấy vị lãnh tụ của cách mạng, của Nhà nước mới. Thật không giống như ông tưởng tượng, lãnh tụ Hồ Chí Minh xuất hiện trên lễ đài là một ông cụ già xương xương với bộ ka ki đã sờn, râu thưa, dáng vẻ đôn hậu, từ tốn, giọng khoan thai, sang sảng mà ấm cúng, thân tình. Bất giác, ông thấy tự hào được là đồng bào của Cụ. Bản "Tiến quân ca" lần đầu tiên vang lên trước Ba Đình lịch sử với tư cách là Quốc thiều của nước Việt Nam độc lập. Tất cả như ngưng đọng trong giờ phút thiêng liêng. Giai điệu "Tiến quân ca" trong hòa âm hào hùng, trang nghiêm của Quốc thiều như có tiếng gọi của hồn nước, tiếng quân reo, tiếng bước chân dồn dập của Xô Viết Nghệ Tĩnh, của Bắc Sơn, Ba Tơ, của Cách mạng Tháng Tám… tất cả như bị cuốn hút vào dòng âm thanh hào hùng, thiêng liêng, trang trọng. Để diễn đạt được cái thần của Quốc thiều, các chiến sĩ nhạc công như xuất thần, để hết tâm trí vào diễn tấu dưới sự chỉ huy chính xác và tràn đầy nhạc cảm của nhạc trưởng Đinh Ngọc Liên.

Trong những ngày đầu của Nhà nước non trẻ, Ban Âm nhạc Giải phóng quân đã mang kèn trống ra góp sức với công việc của chính quyền, của đoàn thể. Nhạc trưởng Đinh Ngọc Liên chỉ huy dàn nhạc đi biểu diễn không ngơi nghỉ, vừa diễn, vừa cổ động kêu gọi tuần lễ đóng góp cho Quỹ Độc lập-Tuần lễ Vàng. Thấm thoắt năm 1945 qua, năm 1946 đến, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của đất nước không chỉ có ý nghĩa khẳng định chủ quyền chính trị của Nhà nước mới mà còn là cuộc đấu tranh cam go trong bối cảnh lúc đó. Quân nhạc hoạt động từ 5 giờ đến 17 giờ hằng ngày, kèn trống đi phục vụ các thùng phiếu Thủ đô, sang tận Gia Lâm, xuống tận Thanh Trì, cứ vừa đi vừa biểu diễn và cổ động nhân dân tham gia bỏ phiếu. Sau đó, Bác Hồ viết tay lá thư gửi xuống khen ngợi Ban Âm nhạc Vệ Quốc quân "làm cho Tổng tuyển cử được tưng bừng vui vẻ và kết quả".

Kháng chiến bùng nổ, Quân nhạc được cử 11 anh em xung vào đội cảm tử quân ở lại bảo vệ Thủ đô. Nhạc trưởng Đinh Ngọc Liên cùng Ban Âm nhạc Vệ Quốc quân đi kháng chiến, bắt đầu một cuộc trường chinh mới bằng âm nhạc cùng với bộ đội và nhân dân với muôn vàn khó khăn gian khổ, để rồi tháng 10-1954, trong đoàn quân tiến về giải phóng Thủ đô, có đoàn quân nhạc do nhạc trưởng Đinh Ngọc Liên dẫn đầu. Suốt dặm dài kháng chiến, ông tiếp tục chỉ huy biểu diễn phục vụ chính phủ và quân dân trên chiến khu, ông còn sáng tác kịp thời ca ngợi chiến công của bộ đội và nhân dân. Năm 1949, ông có tác phẩm "Chiến thắng Phủ Thông"; năm 1950, sau Chiến dịch Biên Giới, ông viết bản nhạc "Xuân chiến thắng", rồi sau này là "Hải cảng về ta"… Những bản nhạc ấy đã trở nên quen thuộc với mọi người và có chỗ đứng trong đời sống âm nhạc đất nước.

Ngày nay, trong các sự kiện lớn của đất nước, những bản nhạc ấy vẫn vang lên trong âm hưởng của dàn Quân nhạc Việt Nam ở khắp mọi miền của Tổ quốc, dù ít người biết đó là những tác phẩm của Đinh Ngọc Liên giống như bài hành khúc 16 nhịp trống ếch trước kia, dường như âm nhạc của ông đã được dân gian hóa trong đời sống âm nhạc hôm nay. Ông đã đi theo cách mạng bằng vốn liếng âm nhạc của mình, phục vụ cách mạng không biết mệt mỏi bằng tài năng âm nhạc của mình. Những ngày đầu đi theo cách mạng vẫn là dấu ấn sâu đậm nhất trong ông. Như cố Giáo sư, Viện sĩ, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước đã viết: “Nếu lịch sử âm nhạc thế giới yêu cầu giới thiệu một thành tựu cách mạng tiêu biểu, một gương sáng về khả năng ứng dụng tài năng âm nhạc cho kháng chiến… tôi xin giới thiệu nhạc sĩ Đinh Ngọc Liên đi nhận vòng nguyệt quế”.

ĐINH CÔNG THUẬN