QĐND - Két!... Chiếc Dream cũ khựng lại. Chân tôi nhoài ra trên con hẻm cát. Anh Hùng, cán bộ chính sách cười và chỉ tay lên núi Trường Lệ: “Đấy, cả ngọn núi ven biển này do bác ấy huy động mọi người phủ xanh”. Nhìn rừng phi lao bạt ngàn vi vút đón gió biển trên núi Trường Lệ, tôi càng khâm phục thương binh Vũ Tiến Tới. Ông là thương binh thuộc diện đặc biệt (tỷ lệ thương tật 92%, mất 1 chân, 1 tay, hỏng 1 mắt) người ở thôn Vinh Quang, phường Trường Sơn, thị xã Sầm Sơn (Thanh Hóa). Người dân nơi đây vẫn gọi ông bằng cái tên trìu mến “Thần Độc Cước sống” dưới chân núi Trường Lệ.
Một nửa thân thể gửi lại chiến trường
Là con thứ trong gia đình có 6 anh chị em, năm 1967, anh thanh niên Vũ Tiến Tới xung phong nhập ngũ nhưng gia đình không đồng ý bởi anh trai của anh đã trong quân ngũ và đang tham gia chiến đấu ở chiến trường Quảng Trị. Anh nuôi chí trong lòng và trốn nhà đi bộ đội. Tháng 3-1967, anh được biên chế vào Đại đội 7, Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 24, Sư đoàn 304 tham gia chiến đấu ở chiến trường Quảng Trị, Nam Lào. Nhiều lần vào sinh ra tử trên chiến trường ác liệt, anh luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.
 |
Thương binh Vũ Tiến Tới (bên phải) cùng những kỷ vật kháng chiến. |
Trong Chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968, tiểu đoàn của anh được giao nhiệm vụ phối hợp cùng tiểu đoàn xe tăng tạo thành mũi thọc sâu đánh đồn Huội San, Lao Bảo (Quảng Trị). Chiến sĩ Vũ Tiến Tới nhận nhiệm vụ trinh sát và đi trước dẫn đường đưa đoàn tăng vượt qua bãi mìn vào đánh đồn địch. Sau khi trườn qua hệ thống hàng rào dây thép gai dày đặc dưới làn đạn của kẻ thù, anh tiến vào sát các lô cốt tiền duyên. Nằm dưới làn đạn địch anh cẩn thận ghi nhớ từng vị trí địch gài mìn, xác định địa điểm đặt bộc phá mở đường. Sau khi anh trở về an toàn, các đơn vị phối hợp thống nhất phương án tác chiến. Để giảm thiểu thương vong và nhanh chóng đánh chiếm được mục tiêu, chỉ huy tiểu đoàn thống nhất mở cửa bằng phương pháp bộc phá liên tục để mở đường cho xe tăng tiến vào. Sau những phút giao tranh dữ dội, nhiều tiếng nổ lớn vang lên, từng lớp hàng rào dây thép gai của địch bị xé toang. Trinh sát Vũ Tiến Tới được lệnh dẫn đường đưa xe tăng xông thẳng vào đồn Huội San. Là người dẫn đầu, anh bình tĩnh đưa đoàn xe bám sát vị trí cửa mở vượt qua tầm đạn pháo của địch. Khi chiếc xe tăng dẫn đầu tiến sâu vào đồn, thì bất ngờ một quả mìn còn sót lại đã phát nổ. Anh Tới bị hất ngược ra sau và bị thương nặng. Đến lúc tỉnh dậy, anh Tới nhận ra hốc mắt trái của mình cay xè nhức nhối, cánh tay phải và chân phải đã đứt lìa. Đồng đội ôm lấy anh báo tin chiến thắng trong nước mắt.
Mối tình đầy chất thơ vượt qua lửa đạn
Để lại một phần thân thể tại đồn Huội San, thương binh Vũ Tiến Tới được đưa về điều trị ở đội phẫu thuật Nam Lào và về dưỡng thương tại Đoàn 580. Trong thời gian đó, anh bất ngờ nhận được lá thư từ chiến trường của một cô gái thanh niên xung phong. Từ đây mối tình đầy chất thơ vượt qua bom đạn chiến tranh được viết nên bằng những cánh thư nối dài từ hậu phương ra tiền tuyến.
Cô gái thanh niên xung phong gan dạ đó tên là Nguyễn Thị Đua quê Quảng Châu, Quảng Xương, Thanh Hóa. Khi đang tham gia mở đường ở Quảng Bình thì cô gặp anh trai của thương binh Vũ Tiến Tới hành quân vào chiến trường Quảng Trị. Được nghe kể về anh lính trinh sát quả cảm đã để lại một phần thân thể của mình trên chiến trường trong trận đánh ác liệt, chị đem lòng yêu mến, cảm phục và quyết định viết thư cho anh. Từ khi nhận được hồi âm, cứ sau mỗi chiến dịch mở đường, chị lại viết thư, kể anh nghe những câu chuyện nơi chiến trường khốc liệt, những lần chị vượt qua bom đạn kẻ thù để mở đường đưa bộ đội vào hỏa tuyến. Cứ như vậy, tình cảm của anh thương binh đặc biệt và cô thanh niên xung phong lớn dần theo năm tháng. Họ cùng thề hẹn ngày chị trở về sẽ làm đám cưới. Cánh thư cứ nối tiếp cánh thư gửi theo bao hy vọng. Chính lời động viên yêu thương của người con gái chưa một lần gặp mặt đã giúp anh vượt qua những cơn đau để sớm phục hồi sức khỏe và trở về địa phương.
 |
Vợ chồng thương binh Vũ Tiến Tới. |
Tháng 4-1971, khi được về phép, chị tìm đến gặp anh. Thương chị, nghĩ tới hoàn cảnh của mình đang nằm trên giường bệnh, anh không đành lòng. Như hiểu nỗi lòng người thương binh, chị gạt nước mắt ôm lấy anh... Thế rồi họ làm đám cưới. Ngày vui ngắn chẳng tày gang. Vừa về nhà chồng thì đã hết phép, chị lại khoác ba lô vào chiến trường nơi những nữ thanh niên xung phong, đồng đội của chị đang ngày đêm đối diện với bom đạn kẻ thù.
Năm 1972, khi mở đường 20 (Quảng Bình) thì một quả bom phát nổ, chị và nhiều đồng đội bị thương. Mang trên mình thương tích 21%, ngày chị trở về, hai vợ chồng thương binh ôm chầm lấy nhau mà khóc. Theo thời gian, họ cùng nhau vượt qua những khó khăn nuôi dạy 5 người con dần khôn lớn. Cuộc sống hạnh phúc của gia đình thương binh Vũ Tiến Tới là niềm mơ ước của nhiều người.
“Thần Độc Cước sống” dưới chân núi Trường Lệ
Người dân Sầm Sơn ngày nay vẫn thường kể cho nhau nghe câu chuyện về vị thần Độc Cước, người đã chia đôi thân thể của mình để một phần đánh đuổi bọn quỷ ngoài biển khơi, một phần bảo vệ quê hương. Cũng không hiểu vì sự trùng hợp hay cái duyên, những năm 90, mặc dù tuổi đã cao, thương binh Vũ Tiến Tới vẫn tham gia vào đội bảo vệ khu vực đền Cô Tiên và đền Độc Cước. Thế là ông, vị “Thần Độc Cước sống” hằng ngày lại góp phần giữ gìn an ninh bảo vệ sự bình yên cho ngôi đền thờ một vị thần đã đi vào tiềm thức người dân nơi đây.
Một buổi trưa cuối năm 1990, trong ca trực, ông được anh em bảo vệ báo có toán cướp dạt về từ Lạng Sơn có mang theo cả đao kiếm, súng ngắn, lựu đạn đang cướp phá khu vực đền. Với sự dũng cảm mưu trí của người lính trinh sát một thời, ông bình tĩnh cử người về Công an thị xã, người đến đồn Công an vũ trang (nay là Đồn Biên phòng 122) báo tin và đề nghị phối hợp bắt cướp. Một mặt ông cùng đồng nghiệp ở lại giữ chân. Trước sự xuất hiện của một người đàn ông chỉ có một tay, một chân, một mắt, bọn cướp cũng chợn mình. Lúc này, Công an thị xã kịp thời xuất hiện phối hợp cùng Công an vũ trang truy đuổi bắt gọn toán cướp.
Dù là thương binh nặng, ông không những tích cực gìn giữ an ninh trên địa bàn mà còn luôn hưởng ứng mọi phong trào của địa phương, nhất là trong lao động sản xuất. Năm 1993, thực hiện dự án trồng rừng FAM-4302, địa phương phát động phong trào trồng rừng, phủ xanh thị xã. Một mình ông trên đôi nạng gỗ, vạch từng lùm cây dại, vượt qua những hẻm đất, vác cây lên núi Trường Lệ. Ông nhẩm tính nếu phủ xanh cả quả núi cần huy động sức của toàn dân trên địa bàn làm trong một thời gian dài. Mà muốn làm vậy ngoài việc vận động cần làm gương cho mọi người thấy. Thế là ngày ngày ông cùng vợ mang cây lên núi trồng. Người dân trong thôn Vinh Quang cảm phục ý chí của ông và cũng làm theo. Thế là chỉ trong hơn một năm, cả quả núi Trường Lệ ven bờ biển Sầm Sơn đã được phủ xanh. Sau chiến dịch trồng cây ông được UBND tỉnh và UBND thị xã Sầm Sơn tặng bằng khen.
Không chỉ tham gia trồng cây gây rừng hay bảo vệ an ninh trên địa bàn, ông tự mình mày mò học cách cắt tỉa, ươm trồng cây cảnh. Chính ông đã cùng tham gia sáng lập “Hội sinh vật cảnh thị xã Sầm Sơn”. Cây cảnh do ông tạo ra được nhiều người yêu thích. Trong những cuộc thi sinh vật cảnh, cây của ông đều đạt giải cao. Tiếng tăm cây cảnh của thương binh Vũ Tiến Tới vang khắp nơi. Thậm chí thời điểm bấy giờ, giới sành cây ngoại tỉnh thường về nhà ông đặt hàng. Có cây giá trị lên đến vài chục triệu đồng. Ông cũng chính là người thành lập "Hội người mù thị xã Sầm Sơn" tạo điều kiện về công ăn việc làm và giúp đỡ nhiều người vươn lên trong cuộc sống.
Giờ đây đã ở vào cái tuổi “xưa nay hiếm”, thi thoảng lại phải chống chọi với những cơn đau bởi vết thương tái phát và di chứng của cơn tai biến, giọng nói cũng không còn rõ, nhưng ngọn lửa nhiệt huyết của người lính vẫn cháy trong người thương binh đặc biệt này. Trên đôi nạng gỗ, ông đưa chúng tôi đi một vòng quanh vườn xem cây cảnh, kể cho chúng tôi nghe về những trận đánh, về đồng đội của ông. Đứng bên chân núi Trường Lệ, dưới những tán phi lao xanh mát nhìn ra phía biển, ánh mắt người thương binh già nheo lại. Trong con mắt còn lại của ông, từng đợt sóng vẫn ào ạt xô bờ hát mãi khúc ca về vị thần Độc Cước năm xưa đã xẻ đôi cơ thể của mình để giữ gìn sự bình yên và no ấm cho người dân bên bờ sóng xứ Thanh.
Bài và ảnh: TRẦN DUY VĂN