QĐND - Tháng 12-2007, vợ chồng liệt sĩ Nguyễn Văn Tú và Thái Thị Ngọc (xã Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên-Huế) được Đảng, Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Hơn 40 năm sau ngày họ hy sinh, người dân địa phương càng hiểu thêm rằng, họ đi vào cuộc chiến với một tâm thế bình thản, tự nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân cho Tổ quốc…

Gương sáng liệt nữ

Trong ký ức của Thiếu tướng Nguyễn Chí Thành, Phó tổng cục trưởng Tổng cục II, hình ảnh về mẹ chỉ còn lại một chút hiếm hoi, quý giá, bởi lẽ từ nhỏ, ông đã phải sống xa mẹ và tròn 10 tuổi-mất mẹ vĩnh viễn. Sau này, khi đọc lại hồ sơ của cha mẹ, được đồng đội cùng chiến đấu với họ kể lại, ông đã nhiều lần không cầm được nước mắt.

Bà Thái Thị Ngọc chụp ảnh cùng hai con trước khi vào chiến trường.

"Mẹ tôi tên là Thái Thị Ngọc, bà sinh ra trong một gia đình trí thức yêu nước. Năm 16 tuổi, bà đã tham gia du kích của thôn Mỹ Lam. Hơn một năm sau, nhờ có năng lực và học vấn, bà được điều lên công tác ở Văn phòng Huyện ủy Phú Vang, giữa năm 1950, bà được kết nạp Đảng…”-ông Thành nghẹn lời kể.

Theo hồ sơ chúng tôi đọc được tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia thì từ năm 1948 đến 1953, bà Thái Thị Ngọc và ông Nguyễn Văn Tú cùng hoạt động cách mạng trên quê hương Phú Vang. Mối tình thời “bão lửa” nảy nở từ sự yêu thương, đồng chí hướng đẹp xiết bao! Năm 1953, hai người hứa hôn nhưng do ông Tú phải lên chiến khu Dương Hòa dự lớp chỉnh huấn tư tưởng, còn bà được cử ra Liên khu IV ở Nghệ An học lớp Nữ hộ sinh nên đám cưới phải gác lại. Mãi đến tháng 7-1954, ông Tú mới tập kết ra miền Bắc và chính thức cưới bà Thái Thị Ngọc. Trái ngọt của cuộc hôn nhân là hai cậu con trai Nguyễn Anh Tuấn và Nguyễn Chí Thành.

Tháng 6-1959, ông Tú đang công tác tại Thanh Hóa thì tổ chức điều ra Hà Nội học Nghị quyết 15 và được bí mật đưa vào Nam chiến đấu. Xa chồng, bà Thái Thị Ngọc một tay nuôi hai con thơ dại, vượt khó khăn chồng chất để vừa tiếp tục công tác, vừa học đại học y, bà tốt nghiệp và trở thành bác sĩ sản khoa năm 1964.

Năm 1965, đế quốc Mỹ ồ ạt đổ quân vào miền Nam và tiến hành ném bom phá hoại miền Bắc. Như bao người Việt Nam yêu nước khác, bà Thái Thị Ngọc ý thức được lúc này “Tổ quốc là trên hết”. Bà quyết định thôi giữ cương vị Chi ủy viên, Phó khoa Sản Bệnh viện Hà Đông, viết đơn tình nguyện xin vào chiến trường tham gia chiến đấu. Gạt nước mắt, bà gửi lại hai con nhỏ là Nguyễn Anh Tuấn (9 tuổi) và Nguyễn Chí Thành (8 tuổi) cho người thím là bà Nguyễn Thị Hạnh, lúc đó công tác ở Bộ Công an, chăm sóc trước khi ra trận. Thiếu tướng Nguyễn Chí Thành nhớ lại: “Trước khi đi, mẹ chỉ nói với chúng tôi: “Mẹ đi làm, các con ở nhà ngoan và nhớ nghe lời bà Hạnh”. Thế là, chúng tôi tự lập lớn lên mà không còn được sự chăm sóc, dạy bảo của mẹ từ giữa năm 1965”.

Ông Nguyễn Văn Tú và bà Thái Thị Ngọc chụp ảnh cùng hai con năm 1959. Ảnh do gia đình cung cấp.

Vào đến chiến trường Thừa Thiên-Huế, bác sĩ Thái Thị Ngọc được cử về công tác ở Ban Dân y Thừa Thiên. Đúng thời điểm này, Mỹ đổ quân xuống Phú Bài, biến nơi này thành căn cứ tiền phương của Mỹ ở miền Nam. Chiến trường trở nên ác liệt hơn bao giờ hết; nhiều cán bộ, chiến sĩ và đồng bào bị thương… Bác sĩ Thái Thị Ngọc hăm hở lao vào cứu chữa thương binh, bệnh binh, đồng thời vừa chiến đấu, bà vừa tham gia đào tạo được nhiều lớp y tá phục vụ chiến trường. Không chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cứu chữa thương binh, bà còn tham gia hàng chục trận đánh, tiêu biểu là chiến công ở chợ Sam. Khi đó, bà cùng anh, chị em du kích phục kích tiêu diệt 19 tên địch, bắt sống 2 tên, thu nhiều vũ khí; hay khi tấn công trụ sở ngụy quyền xã Phú Mỹ đã cùng đồng đội tiêu diệt một trung đội địa phương và hai tên ác ôn khét tiếng. Một trận đánh khác ở An Lưu, để đề phòng địch càn vào khu vực cấp cứu thương binh, bác sĩ Thái Thị Ngọc đã đặt mìn chống tăng và phá hủy một chiếc M113.

Đồng đội của bà không thể quên ngày 22-12-1967, địch đánh phá ác liệt tại Phú Đa. Bác sĩ Thái Thị Ngọc không hề nao núng, vẫn tiếp tục làm công việc cứu chữa thương binh. Bỗng địch ập đến và phát hiện ra nơi bà trú ẩn. Địch vừa lật nắp hầm, bà rút chốt lựu đạn tung về phía bọn chúng khiến 5 tên ác ôn chết tại chỗ... Trong trận chiến đấu không cân sức ấy, bác sĩ-chiến sĩ Thái Thị Ngọc đã mãi mãi ra đi!

Biết chết vẫn bám cơ sở

Thiếu tướng Nguyễn Chí Thành nhớ mãi lần được gặp cha. Đó là năm 1968, ông Nguyễn Văn Tú bị thương nặng, được đưa sang Quế Lâm (Trung Quốc) điều trị, nơi hai con ông đang học tập.

 - Tôi không nhớ mặt mũi ba thế nào. Hôm đó, các cô chú trong Ban giám hiệu nhà trường-nơi chúng tôi đang học, gọi hai anh em tôi lên, dọc đường tôi vẫn thắc mắc với anh trai: Đi đâu? Gặp ai? Khi đến trước mặt một người cao gầy, tóc đã lấm tấm bạc, các chú ở Ban giám hiệu hỏi tôi: Cháu có biết ai đây không? Tôi đứng sau anh trai lắc đầu trả lời: “Không biết ạ”. Tôi chỉ thấy nước mắt ông lăn trên gò má, rồi ông ôm chầm lấy hai anh em tôi: Ba của các con đây mà…

Đó là lần gặp cha đầu tiên và cũng là lần gặp cha cuối cùng trong đời của anh em chúng tôi!-Thiếu tướng Nguyễn Chí Thành xúc động nhớ lại.

Sau khi tập kết ra Bắc, cuối năm 1959, ông Nguyễn Văn Tú bí mật quay trở lại chiến trường miền Nam và được Tỉnh ủy Thừa Thiên-Huế cử vào Ban Cán sự huyện Phú Vang để chỉ đạo phong trào cách mạng đang gặp nhiều khó khăn do chính quyền Ngô Đình Diệm thực thi chiến dịch “tìm và diệt” bằng Luật 10-59; lập các ấp chiến lược nhằm cô lập cán bộ cách mạng. Cùng với các đồng chí của mình, ông Nguyễn Văn Tú đã bí mật khôi phục lại các cơ sở cách mạng. Năm 1964, các huyện đồng bằng Thừa Thiên-Huế tiến hành đồng khởi; năm 1965, nhiều xã ở phía Nam của Phú Vang được giải phóng. Tháng 12-1967, vợ ông-bác sĩ Thái Thị Ngọc hy sinh thì ba tháng sau, ông bị thương nặng. Thời gian này, ông được chuyển ra Bắc rồi sang Trung Quốc điều trị. Ông tranh thủ về Quế Lâm thăm hai con được khoảng mươi ngày.

Gặp lại các con, ông Nguyễn Văn Tú như vỡ òa. Lúc đầu, ông định báo tin cho hai con là mẹ của chúng đã hy sinh, nhưng rồi nghĩ lại: Vì các con còn nhỏ, chưa thể suy nghĩ và hiểu biết nhiều về điều đó, vì sợ những chuyện đau thương ảnh hưởng đến học tập nên ông im lặng. Sau nhiều dằn vặt, đắn đo, trước khi trở lại chiến trường, ông quyết định viết một lá thư khá dài (bí mật gửi cho người thân) với hy vọng “khi các con đã lớn, đã biết suy nghĩ”, đọc lá thư này các con sẽ biết mẹ đã hy sinh như thế nào, ở đâu...

Sau Mậu Thân 1968, nhiều cơ sở của ta bị vỡ, ông Tú đau đáu những nỗi lo. Ông quyết định trở lại Thừa Thiên-Huế chiến đấu với cương vị Phó văn phòng Tỉnh ủy; nhưng vì ông Hồ Đống, Bí thư Huyện ủy Phú Vang, ốm nặng phải ra Bắc điều trị nên đến năm 1972, ông Nguyễn Văn Tú được Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên-Huế cử làm quyền Bí thư Huyện ủy Phú Vang.

Trong suốt thời gian ở chiến trường, trên các cương vị được giao, ông Nguyễn Văn Tú đã lãnh đạo và chỉ huy hàng chục trận chiến đấu. Đặc biệt là tháng 12-1967, sau khi chôn cất người vợ thương yêu của mình, ông đã về Dưỡng Mong (Phú Mỹ) cùng du kích diệt 80 tên địch bình định nông thôn; cùng với các lực lượng khác bắn cháy một máy bay HU1A, hai xe M113 và một xe Jeep của Quận trưởng Phú Vang làm tên này bị thương nặng; sau đó tiếp tục tổ chức phục kích tại cầu Sam diệt 19 tên, bắt sống tên Đoàn trưởng bình định nông thôn, tổ chức đánh phá đường ống và đốt phá kho xăng dầu cảng Tân Mỹ...

… Chạng vạng tối 6-6-1972, ông Tú cùng giao liên từ thôn Lang Xá, xã Thủy Thanh (huyện Hương Thủy) chuẩn bị vượt sông Như Ý sang xã Phú Hồ (Phú Vang) thì có động. Biết mình bị phục kích, với vũ khí trong tay, ông đã kiên cường, dũng cảm chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, tiêu diệt 5 tên lính ngụy. Lực lượng chênh lệch, ông Tú bị địch bắn trúng vào vết thương cũ, gãy chân. Tên trung đội trưởng dân vệ khét tiếng ác ôn Lê Suổi đã nhào tới bắn tiếp hai phát đạn…

Sự hy sinh của vợ chồng Anh hùng-liệt sĩ Nguyễn Văn Tú và Thái Thị Ngọc thật oanh liệt và bi tráng. Họ đã tận hiến đến giây phút cuối cùng cho sự nghiệp cách mạng của đất nước, quê hương. 

TRỊNH DŨNG