QĐND - Từng là lính chiến, bám trụ 3 năm ở chiến trường Quảng Trị, hứng chịu mưa bom, bão đạn, vào sinh ra tử. Sau này, dù trải qua nhiều cương vị quản lý, nhưng ông vẫn thích được mọi người biết đến với vai trò là cựu chiến binh. Ông thích hát những bài ca hào hùng của người chiến sĩ năm xưa - những bài ca mà mỗi lần cất lên là bầu nhiệt huyết của tuổi xuân năm nào lại ùa về, giúp ông có thêm nghị lực vượt qua khó khăn thử thách trên trận chiến kinh tế đi tìm “vàng đen” làm giàu cho đất nước.
Hát trước họng súng thù
Ông là Nguyễn Văn Minh, đang mang chức danh Phó tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, tiến sĩ chuyên ngành khai thác dầu khí, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh (CCB) Tập đoàn, Chủ tịch Đại học Dầu khí Việt Nam, cùng một số chức vụ khác của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam. Ông kể lại chuyện đời mình, trong đó có cả những lần vào sinh, ra tử trên chiến trường bằng cách kể đầy lạc quan của người lính.
Ông sinh năm 1952, trong một gia đình giàu truyền thống hiếu học tại xã Thanh Lương, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Cụ thân sinh là giáo viên dạy Sử vì thế ngay từ nhỏ ông đã được giáo dục lòng yêu nước.
Tháng 5 năm 1972, theo tiếng gọi của Tổ quốc, cậu học sinh Nguyễn Văn Minh đã xung phong lên đường nhập ngũ và tham gia vào chiến trường Quảng Trị đầy bão lửa. Ông kể, mỗi lần lên chốt là phải tự xác định có thể sẽ không trở về. Mỗi chiến sĩ thường chuẩn bị cho mình một bộ đồ “hậu sự”, bao gồm: Một bộ quân phục mới, một cái tăng (bao bằng ni-lông để đựng thi hài), một lọ pê-nê-xi-lin trong đó đựng mảnh giấy ghi tên tuổi, quê quán, đơn vị. Gần 3 năm tại chiến trường Quảng Trị, ông trở nên dạn dày bom đạn, chỉ cần nghe tiếng đạn pháo rít là có thể đoán được bắn từ đâu và rơi vào đâu. Rất nhiều lần ông được tận mắt chứng kiến những vòng tròn đồng tâm chết người do sức nổ của bom từ siêu pháo đài bay B-52 trút xuống. Trong một trận rải thảm của B-52, đại đội của ông hy sinh gần hết, bản thân ông bị thương ở chân. Ra viện, cấp trên cho về tuyến sau nhưng ông vẫn xin trở lại đơn vị cũ tiếp tục chiến đấu.
Tại chiến trường khốc liệt này, ông vinh dự được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam khi mới 22 tuổi. Cuộc sống, chiến đấu với ông vẫn đầy lạc quan. Do có đôi chút năng khiếu về âm nhạc, biết chơi đàn từ lúc còn là học sinh, ông đã được cử vào đội văn nghệ xung kích của đơn vị. Văn nghệ, ca hát nhưng lại là trọng trách, bởi đội văn nghệ của đơn vị ngoài việc phục vụ chiến sĩ còn có nhiệm vụ làm công tác địch vận. Ông còn nhớ, có những lần đội văn nghệ phải biểu diễn giữa hai chiến tuyến. Giữa hai làn đạn, tưởng như chỉ có tiếng súng và cái chết, ấy thế mà tiếng hát mộc mạc nhưng hùng hồn, đầy cảm xúc, chứa chan tình yêu nước và tinh thần nhân ái của đội văn nghệ xung kích vẫn vang lên, đã góp phần củng cố thêm quyết tâm chiến đấu của quân ta, đồng thời từng bước cảm hóa binh lính đối phương. Thời điểm đó, nhìn chung binh lính đối phương đã chán ghét cuộc chiến phi nghĩa của Mỹ-ngụy. Họ lặng im để nghe tiếng hát đội văn nghệ vang lên trong không gian. Trong chiến tranh có những khoảnh khắc thật kỳ lạ. Hai bên chĩa súng về phía nhau nhưng cùng lặng nghe lời ca vang lên từ tâm hồn con người. Và hẳn rằng, trong sâu thẳm, đã có không ít những trái tim thổn thức… Thế nhưng, cũng có lần đang biểu diễn thì chỉ huy lính ngụy ra lệnh báo động chiến đấu. Đáp lại phía ta cũng ra lệnh báo động chiến đấu. Lúc ấy đội văn nghệ được lệnh cứ tiếp tục biểu diễn, không được lui. May mà hôm ấy địch chỉ báo động dọa ta.
Ông còn nhớ kỷ niệm vui từ cái lần tham dự hội diễn văn nghệ của tỉnh Quảng Trị cuối năm 1973. Muốn biểu diễn hay thì phải có đàn, mà giữa lúc bom đạn, chiến tranh thì đào đâu ra của hiếm ấy. Nghĩ nát óc, thế là ông nảy ra ý tưởng làm một chiếc đàn từ cái mũ sắt của lính ngụy mà ông thu được.
Ông ngồi lỳ trong hầm hì hụi đẽo cái cần đàn, gọt cái miệng mũ cho phẳng, khéo lựa miếng tôn giấy làm mặt đàn, căng thêm 3 cái dây cước. Đơn giản thế mà khi gảy thử đàn kêu “tưng tửng” ra vần ra điệu mới tài. Tại hội diễn của tỉnh, “nghệ sĩ” Văn Minh vừa đàn vừa hát ca khúc “Tiến về Sài Gòn”. Anh em phấn khích, reo hò vỗ tay ầm ĩ. Ai cũng thắc mắc, không hiểu chiếc đàn tự tạo của Văn Minh nên gọi là đàn gì. Đàn này có bầu, có 3 cái dây và cái cần dài hao hao giống đàn nhị. Khi ông Minh cúi chào, giơ lên rồi quay ngược cái đàn thì mọi người mới biết tác phẩm được chế từ mũ cối của lính ngụy. Tất cả được một trận cười no bụng. Vì nét đặc sắc ấy mà tiết mục của đơn vị ông được giải nhất.
Trăn trở với từng giọt dầu
Chiến tranh kết thúc, năm 1977, ông được cho đi ôn tập văn hóa để thi vào Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp Việt Bắc. Với vốn kiến thức cơ bản vững vàng, ông thi đỗ với số điểm cao và được cử đi học chuyên ngành Khai thác dầu mỏ của Đại học dầu hóa Ba-cu, nước Cộng hòa A-déc-bai-dan (Liên Xô trước đây).
Ông nói, giọng vui vui: “Lúc đó, dầu khí ở Việt Nam còn là tiềm năng, chưa rõ tương lai thế nào. Nhưng là lính, thi đậu đại học lại được đi học nước ngoài là hạnh phúc lắm rồi, không dám mơ gì nữa, nên học ngành gì cũng thích”.
 |
Ông Nguyễn Văn Minh (ngoài cùng bên phải) cùng các cán bộ Hội Cựu chiến binh và đại diện các tổ chức quần chúng Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam tới thăm, tặng quà cho trẻ em bị nhiễm chất độc da cam tại Làng Hữu nghị Việt Nam. |
Tốt nghiệp Đại học với tấm bằng đỏ, ông về nước và đã trở thành cán bộ của Phòng Kỹ thuật - Xí nghiệp khai thác khí Tiền Hải Thái Bình thuộc Công ty Dầu khí I (Tổng cục Dầu khí Việt Nam). Tại đây, ông là chủ biên của công trình thiết kế “Phương án khai thác mỏ Tiền Hải C”. Kể sao hết những gian nan của việc thiết kế công trình đầy ý nghĩa ấy. Yêu cầu đặt ra là công trình phải khoa học, chính xác, an toàn, hiệu suất cao. Thế nhưng, ngày ấy trong điều kiện đất nước còn khó khăn, tất cả các tính toán đều được thực hiện bằng tay, rất căng thẳng. Sau 6 tháng miệt mài, ông và các cộng sự đã hoàn thành được công trình nhiều ý nghĩa ấy. Đây là mỏ khí đầu tiên của Việt Nam, cũng do người Việt Nam tự lực tính toán và thiết kế phương án khai thác. Công trình đã bước đầu thể hiện được sự tự chủ về công nghệ của ngành dầu khí Việt Nam.
Nói về những vất vả trong công tác thiết kế kỹ thuật ngày ấy, ông kể rằng suốt một thời gian dài ông ngủ không ngon giấc, lúc nào cũng bị ám ảnh bởi những con số, những hình vẽ. Về sau, để nâng cao hiệu suất công việc, theo đề nghị, Phòng Kỹ thuật được trang bị chiếc máy tính Casio 8 số để tính toán. Vào thời ấy, chiếc máy tính là tài sản quý hơn vàng của cả Xí nghiệp, lúc nào cũng được anh em nâng niu, cất giữ rất cẩn thận. Một hôm, ông giao chiếc máy tính cho đồng chí trưởng ca vận hành. Đồng chí đó đã cất ngay vào túi áo ngực. Thế mà, đúng lúc ăn cơm, đồng chí ấy cúi xuống múc bát canh thì ôi thôi… chiếc máy tính rơi tõm xuống nồi canh đang sôi. Trời đất như sập xuống! Ông Minh buồn hơn mất sổ gạo, lủi thủi về cơ quan chịu trận cùng đồng nghiệp, bị phê bình với nội dung: “Lãng phí, xa hoa không giữ gìn tài sản…”.
Trong suốt quá trình là “người dầu khí” đến nay, ông Nguyễn Văn Minh đã tham gia vào nhiều đề án khai thác dầu khí trên khắp đất nước. Ông luôn tâm niệm rằng: “Dầu khí là tài sản quý hiếm của quốc gia. Khai thác đi một thùng dầu là đất nước nghèo đi một thùng dầu. Phải làm sao khai thác và sử dụng có hiệu quả nhất nguồn tài nguyên quý hiếm đó…”. Chính vì nhận thức và trách nhiệm đó với đất nước, ông Minh luôn say sưa quên ăn, quên ngủ với các công trình nghiên cứu và cũng sẵn sàng hợp tác công bằng với các đối tác để có thể bảo vệ lợi ích cao nhất cho đất nước.
Sau này, khi trở thành một trong những chuyên gia hàng đầu trong ngành dầu khí trong lĩnh vực thăm dò, khai thác, ông đã tham gia vào công trình nghiên cứu tập thể “Tìm kiếm, phát hiện và khai thác có hiệu quả các thân dầu trong đá móng Granitoit trước đệ tam Bể Cửu Long thềm lục địa Việt Nam”. Công trình này là tâm sức của bao thế hệ người dầu khí Việt Nam để có thể hiểu rõ về các mỏ dầu của Tổ quốc, từ đó đề ra các phương án khai thác hiệu quả. Công trình nghiên cứu này đang được đề nghị xét giải thưởng Hồ Chí Minh. Có thể hiểu nôm na rằng, đặc trưng của địa chất dầu khí ở Việt Nam khác xa so với phần lớn các nước trên thế giới. Trên thế giới, trong đá móng chỉ có khoảng 3% lượng dầu, nhưng tỷ lệ này ở các mỏ dầu tại Việt Nam là 80%. Chính vì tính đặc thù, “không giống ai” đó, đòi hỏi phương án, công nghệ, quy trình khai thác các mỏ dầu của Việt Nam cũng “chẳng giống ai”. Trong khi, việc khai thác dầu trong đá móng trên thế giới chưa có nghiên cứu, chưa có tiền lệ. Không chịu đầu hàng, các kỹ sư dầu khí Việt Nam đã đi đầu trong việc nghiên cứu ra một công nghệ mới để có thể khai thác hiệu quả dầu trong đá móng Granitoit. Đây chính là nghiên cứu quyết định sự thành công của ngành dầu khí Việt Nam.
Với cương vị Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, nhiệm vụ chính của ông là “đầu tàu” để động viên, cổ vũ phát huy, lan tỏa truyền thống, hình ảnh đẹp của người lính trên mặt trận làm kinh tế, gương mẫu mọi mặt trong công tác và sinh hoạt, nâng cao năng suất lao động cùng với đơn vị hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Hơn 3000 cán bộ, CCB trong Tập đoàn, giờ đây không còn trên vai ba lô và cây súng, nhưng dù ở hoàn cảnh và vị trí công tác nào thì họ vẫn tâm niệm mình là Bộ đội Cụ Hồ, phải sống, làm việc, lao động với tinh thần, ý chí, nghị lực, lòng dũng cảm và lòng yêu nước của người lính năm xưa. Bên cạnh đó, Hội cũng luôn bảo vệ quyền lợi chính đáng của các CCB, thực hiện tốt vai trò công tác an sinh xã hội. Ngày ngày, ông luôn canh cánh những nỗi niềm về các CCB còn khó khăn, còn mang trong mình di chứng của chiến tranh, hay những đồng đội đang nằm lại nơi chiến trường chưa được đoàn tụ cùng thân quyến... Mấy năm nay, Hội tổ chức nhiều chương trình đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn có ý nghĩa: Lễ viếng Thành cổ Quảng Trị, Lễ cầu siêu cho các Anh hùng liệt sĩ ở Đường 9... Bên cạnh đó, Hội phối hợp cùng Hội CCB Trung ương thực hiện các hoạt động tri ân thương bệnh binh, giúp đỡ Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, xây trường học, đóng góp hàng tỷ đồng cho các em nhỏ bị nhiễm chất độc da cam ở làng Hữu nghị…
Với những đóng góp của mình, ông chủ tịch “cựu chiến binh dầu khí” đã được tặng nhiều huân huy chương, danh hiệu, bằng khen, phần thưởng cao quý như: Hai Huân chương Lao động hạng nhì và hạng ba; Huân chương Kháng chiến hạng nhì, Huy chương Chiến sĩ vẻ vang. Mới đây, ông đã được vinh danh là một trong 50 cán bộ tiêu biểu của ngành dầu khí Việt Nam trong 50 năm qua.
Đối với ông, phần thưởng đáng quý nhất chính là tình cảm mà đồng chí, đồng nghiệp, bè bạn và gia đình luôn dành cho ông. Chính vì điều ấy mà ông luôn nỗ lực lao động, cống hiến từng ngày để làm những gì tốt đẹp nhất cho cuộc đời.
Bài và ảnh: Hồ Quang Phương