Vợ chồng y sĩ Phạm Hồng Thắng-Nguyễn Thị Bơn và con nuôi Rơ Châm Hoài Thương tại nhà riêng

Hơn 20 năm nay, ông vẫn trong bộ trang phục "lính Cụ Hồ" đã sờn gáy, cưỡi "con ngựa sắt" lặn lội đến từng nóc nhà để ghi chép, chăm sóc và điều trị cho gần 400 đứa trẻ vô tội bị khuyết tật, nhiễm chất độc da cam. Ông còn "giằng từ tay thần chết" đem về nhà nuôi 3 trẻ sơ sinh người dân tộc thiểu số... Làm phúc quên phận mình, ông được dân làng đặt tên là ông "Bụt”. Ông cười nói: "Nếu là Bụt thì tôi đã hóa phép cho tất cả các cháu lành lặn, biết cười đùa, vui chơi và đi học hết rồi!".

"Máu lính" thời bình

Gần 20 năm phục vụ trong quân ngũ, y sĩ Phạm Hồng Thắng hiểu hơn ai hết về nỗi đau của người dân huyện Chư Pah (Gia Lai) - nơi thời kháng chiến chống Mỹ phải căng mình gánh chịu những "cơn mưa" chất độc da cam nặng nề nhất Tây Nguyên.

Ông "bén duyên" với Gia Lai lúc nào chẳng hay. Người trong gia đình chỉ biết, sau khi xuất ngũ chưa được 3 tháng, y sĩ Thắng động viên vợ từ tỉnh Thái Nguyên chuyển vào sinh sống tại xã Ia Nhin, huyện Chư Pah để làm một công việc... "vác tù và hàng tổng".

Hằng ngày, ông khoác trên vai chiếc ba lô cũ kỹ với lỉnh kỉnh đồ nghề cứu thương, tìm đến từng nóc nhà sàn heo hút ghi chép, khám và điều trị cho những đứa trẻ vô tội.

Ông tâm sự, ngày đầu vào Gia Lai, vợ ông sững sờ khi thấy huyện Chư Pah là vùng đất hoang vu với hàng trăm quả đồi trọc chỉ còn những vạt cỏ tranh, cúc quỳ vàng là sống được. Bà lo lắng không biết sẽ sinh nhai như thế nào, làm gì để ăn.

Tích cóp mãi, vợ chồng ông cũng mua được hơn 2 sào đất trồng cà phê - đó cũng là nguồn sống chính của gia đình 6 người... Nhờ lam làm, cà phê lại được mùa, vài năm sau, ông tiết kiệm mua thêm vài con bò. Thế là ông để ruộng vườn cho vợ con trông coi, dành hết thời gian đi đến các ấp lập danh sách được 396 đứa trẻ bất hạnh bị nhiễm chất độc da cam, khuyết tật đang sinh sống rải rác trong những căn nhà sàn trống hơ, trống hoác và lên kế hoạch, chữa trị cho chúng. Ngày ngày, bất kể mùa mưa hay nắng, ông lặn lội tìm đến nhà điều trị theo "lịch riêng" cho từng cháu, rồi ghi chép, theo dõi cẩn thận vào một cuốn sổ tay. Đứa nặng thì đến nhiều lần, đứa nhẹ thì đến cách nhật, hướng dẫn bố mẹ chúng chữa trị tại nhà. Đứa nào nặng quá, chữa không được thì cõng các cháu lên trạm xá xã để tiện theo dõi, chữa trị.

Ở vùng đất này thật nghiệt ngã, mùa khô thì đường đất đỏ bụi không nhìn thấy mặt người, mùa mưa thì phải đánh vật với từng mét đường trơn trượt, như đổ mỡ. Vất vả, nhưng cái "máu lính" vẫn thúc giục ông đi. Lãnh đạo UBND xã Ia Nhin (nơi gia đình ông đang sinh sống), thấy ông năng nổ, nhiệt tình làm việc thiện, lại có bằng cấp nghề y, thế là mời ông về làm cán bộ phụ trách dân số của xã. Từ ấy, ông có điều kiện hơn để giúp đỡ nhiều người.

Một tin vui đã đến với nhân dân vùng nghèo khó: Năm 2003, UBND tỉnh Gia Lai quyết định thành lập Trung tâm phục hồi chức năng trẻ em khuyết tật dựa vào cộng đồng huyện Chư Pah, trụ sở đặt tại xã Ia Kha và mời Phạm Hồng Thắng về làm Giám đốc trung tâm.

Gọi là giám đốc cho oai, chứ phụ cấp chỉ được 300.000 đồng/tháng; trụ sở chỉ là một căn nhà rộng 60m2 với 8 thiết bị phục hồi chức năng, như xe đạp chân, máy đỡ teo cơ; còn quỹ vốn thì không có đồng nào… Toàn là những thiết bị thô sơ, nhưng dù sao thì đây vẫn là ngôi nhà ấm áp nhất của những trẻ thơ bất hạnh.

Trung tâm không có tiền, ông Thắng bàn với anh Rơ Châm Bir (người Giơ-rai, cùng làm với ông) về nhà cùng "xin" vợ một triệu đồng đi mua thêm 2 máy điện châm để điều trị cho các cháu. Còn kim châm cứu hai người thay nhau bỏ tiền túi ra mua dần.

Đang tiếp tôi thì nghe thấy đứa trẻ khóc thét lên, ông vội vàng đem máy điện châm ra cắm điện. Dòng điện chạy qua, toàn thân đứa trẻ rung nhẹ… Hơn 10 phút sau, những cơn đau của đứa trẻ như tan biến, cháu dần ngủ lịm đi. Lúc ấy ông Thắng mới thở phào nhẹ nhõm trở lại tiếp khách tiếp...

Cũng giống như các địa phương khác, hầu hết gia đình đưa con em lên điều trị tại Trung tâm thuộc diện hộ nghèo và rất nghèo, nên chẳng những họ không có tiền chữa trị mà đến tiền ăn cũng không có. Để giữ được các cháu ở lại điều trị, biện pháp duy nhất là ông về... nói với vợ xin mớ rau, quả bí, con cá, cân gạo giúp các cháu có bữa ăn. Tối đến, Trung tâm chật chội, không có chỗ ngủ, ông lại loay hoay chạy xin nhà dân gần cho bố mẹ các cháu ngủ nhờ qua đêm.

Bận bịu với công việc ở Trung tâm, ông không còn thời gian giúp đỡ việc nhà, nhưng "hậu phương" của ông thì tuyệt vời hơn cả những gì chúng tôi tưởng. Vợ ông Thắng chậm rãi nói: "Nhà tôi bỏ công sức ra làm việc thiện giúp người, tôi ưng cái bụng nên động viên anh ấy yên tâm, mọi việc trong gia đình đã có tôi và các con thu xếp ổn cả”.

Không chỉ lo việc nhà như bà nói, mà bà còn hai lần thay chồng đưa 10 cháu vào tận Thành phố Hồ Chí Minh để chữa trị. Bà thật thà nói: "Nhờ đưa các cháu đi mà tôi mới có cơ hội biết được Thành phố Hồ Chí Minh đấy!".

Giành lại sự sống từ tay thần chết

Gần đây gia đình ông có thêm 3 thành viên mới. Điều đặc biệt, cả 3 đều là những trẻ sơ sinh được ông cứu khỏi tay “thần chết” do hủ tục lạc hậu của địa phương. Đó là những đứa trẻ vừa sinh xong thì mẹ chết, mà theo tục lệ lạc hậu của đồng bào dân tộc thiểu số thì: Nếu người mẹ bị chết sau khi sinh thì những đứa trẻ sẽ bị người thân, làng xóm "bắt" bé đi theo mẹ xấu số để... mẹ cho bú.

Y sĩ Phạm Hồng Thắng chuẩn bị “đồ nghề” đi chữa bệnh cho các cháu tật nguyền

Lần ấy đang đi cơ sở, ông Thắng giật mình nhìn thấy cảnh tượng hãi hùng: Người đàn bà xấu số nằm co quắp giữa sàn nhà. Cạnh đó là một hài nhi rúm ró trong chiếc tã rách, khóc không ra tiếng. Bốn giờ đã trôi qua nhưng không ai ngó ngàng gì tới bé. Người ta cố tình để bé chết dần! Trong khi đó họ hàng cả trăm người lại đi đập bò, đập heo để cúng ma... Ông kêu lên: “Sao lại để cháu bé thế này?”. Một người già giải thích về phong tục của làng.

Nhất định không thể để cháu bé như thế, ông nói to: “Không muốn nuôi thì cho tôi, được chưa?". Nhiều người ngăn cản, nhưng ông liền cởi áo đùm đứa bé, vừa bế vừa chạy về nhà.

Thấy chồng bế về một bé gái có thân hình xám ngắt, toàn thân kiến, bọ chét cắn sưng tấy, bà Nguyễn Thị Bơn-vợ ông hốt hoảng: “Nó mà chết thì mình có tội lớn lắm”.

Ông nói như quả quyết: "Không cứu thì nó chết mất. Từ nay nó là con của vợ chồng mình rồi".

Đưa cháu bé cho vợ, ông chạy xuống bếp đun nước nóng để tắm cho nó, rồi cho uống sữa. Được tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo ấm, uống sữa, da đứa bé dần hồng hào trở lại, ngủ thiếp đi. Đến lúc ấy cả nhà mới thở phào nhẹ nhõm, đặt tên cho bé là Rơ Châm Hoài Thương (Rơ Châm là họ mẹ của cháu). Căn nhà cấp 4 chỉ rộng gần 60m2 bỗng trở nên bận rộn, do có thêm thành viên mới. Hàng xóm thấy lạ liền vây đến xem đông kín. Có người nói "Nhặt làm gì. Hãy đem bỏ nó vào rừng để con mang, con hoẵng cho nó bú chứ...". Ông Thắng lựa lời khuyên giải cho mọi người nghe đó là hủ tục lạc hậu, vi phạm pháp luật.

Lần tiếp theo vào năm 2005, khi đang bận chữa trị cho các cháu dưới làng, ông Thắng nghe người ta đồn rằng "Ở làng M'rông có một phụ nữ người dân tộc thiểu số rất trẻ, vừa đẻ con xong thì chết. Người nhà đang lấy gót chân người mẹ đè lên cổ của bé cho nó được chết theo mẹ. Nhìn thấy, ai cũng sợ không dám cứu...". Ông Thắng đến ngay UBND xã báo cáo lại tình hình, rồi chạy nhanh đến hiện trường. Trước mắt ông là một đứa bé đỏ hỏn, mắt trợn ngược, chân đạp yếu ớt. Thấy vậy, ông liền kéo chân người mẹ xấu số ra, xốc ngược đứa bé lên trước sự chứng kiến của chính quyền xã và đông đảo người dân hiếu kỳ, rồi ôm bé chạy đến trạm xá cắt rốn, đưa về nhà. Lần này là một thằng bé kháu khỉnh, vợ chồng ông đặt tên cho cháu là Rơ Châm Hồng Tâm.

Ông kể: "Thương quá, mẹ thằng bé đang còn là học sinh lớp 9. Tôi lấy ảnh trong thẻ học sinh chụp lại, phóng to lên để sau này cháu Tâm có ảnh mẹ mà thờ phụng...". Ngồi lọt thỏm trong lòng bố nuôi, cháu Hồng Tâm lại luôn mồm gọi ông là “ông nội”! Ông bảo: “Dân làng cứ gọi tôi thế, cháu nói theo”.

Chưa hết, cuối năm 2007, đang trên đường đi gặp mưa, ông tạt vào quán nhỏ ven đường để trú chân. Bà chủ quán than với ông: Cách đó chừng 1km, có người phụ nữ Giơ-rai đẻ xong thì bị băng huyết rồi chết. Hiện đứa con đang bị "hành hình", mưa lạnh thế này, lại bị bỏ đói chắc là đứa bé chết mất. Thấy thế, ông Thắng lao trong mưa chạy thẳng đến cứu cháu, đem về nuôi. Đầu năm nay, có một cặp vợ chồng hiếm muộn đã đến xin cháu về làm con nuôi. Vợ chồng ông Thắng đồng ý, nhưng với một điều kiện ngặt nghèo là yêu cầu gia đình họ viết đơn cam kết với vợ chồng ông phải chăm nuôi cháu như con đẻ, nếu khó khăn không nuôi được thì trả lại cho ông nuôi.

Vĩ thanh

Tuy còn rất nhiều khó khăn, nhưng từ khi thành lập và đi vào hoạt động đến nay, Trung tâm phục hồi chức năng huyện Chư Păh đã dần được nhiều tổ chức, cá nhân biết đến, họ hỗ trợ giúp đỡ cả vật chất và tinh thần. Từ đó Trung tâm có điều kiện hơn để nâng cấp cơ sở, mua thêm máy tập luyện, chữa trị cho các cháu. Trung tâm cũng đã đưa gần 40 cháu đi phẫu thuật chỉnh hình ở nước ngoài và Thành phố Hồ Chí Minh. Sau phẫu thuật các cháu có sức khỏe tốt, phục hồi được từ 75 đến 90%.

Khi có nhiều cháu đã phục hồi sức khỏe, ông lặn lội đến Trường Trung cấp nghề Gia Lai liên hệ gửi 30 cháu học nghề miễn phí. Cuối năm 2007, ông một mình khăn gói ra Bộ Quốc phòng để xin tiền mua máy sản xuất tăm tre cho các cháu. Nghe ông trình bày, Bộ Quốc phòng đồng ý hỗ trợ 50 triệu đồng. Nhưng khi cầm tiền đi hỏi mua máy thì số tiền này chưa đủ. Ông tiếc nuối "Cái mộng của tôi là phải cố gắng mua được một chiếc máy sản xuất tăm tre để tạo việc làm, có thêm nguồn bổ sung vào bữa ăn cho các cháu, nhưng ai ngờ giá lại cao quá nên "dự án" này đang tạm bị gác lại...".

Nhìn ông lặng lẽ mân mê chiếc máy điện châm do Cộng hòa liên bang Đức tài trợ năm 2008, tôi bỗng thấy mắt mình cay cay... Trước mắt tôi không còn là ông Thắng mà là “ông Bụt” bước ra từ trong cổ tích...

Bài và ảnh: VŨ ĐÌNH NĂM