QĐND-Trong một ngôi nhà bé nhỏ trên sườn đồi, Bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Nhứt ngồi trên chiếc ghế gỗ, đôi mắt sâu thẳm nhìn ra những bụi cúc quỳ cuối mùa ánh lên sắc vàng sậm đến nao lòng. Mẹ kể chuyện về những đứa con của mình.

Xuân Sơn, xã Xuân Trình, huyện Cầu Đất, tỉnh Lâm Đồng là một thôn nằm trên sườn núi. Những mái nhà giản dị, bình yên. Người dân Xuân Sơn hiền lành, cần cù, chân chất. Ngày tôi gặp, mẹ Nguyễn Thị Nhứt đang sống trong ngôi nhà ở Đà Lạt nhưng tâm hồn mẹ đã gởi lại mảnh đất chôn nhau cắt rốn ở Xuân Sơn.

Thời con gái của mẹ có biết bao kỷ niệm gắn bó ở Xuân Sơn. 17 tuổi, mẹ Nhứt đã là cô y tá giỏi nghề, tháo vát. Năm 18 tuổi, mẹ kết hôn với một chiến sĩ vệ quốc. Mẹ Nhứt không có điều kiện sống gần chồng. Năm 1954, đôi vợ chồng trẻ mới được sống bên nhau dưới nếp nhà lá ẩn dưới rặng cây xanh. Họ sinh những đứa con. Nhưng chiến tranh đã lan rộng đến cái thôn trên sườn núi xa xôi, hẻo lánh ấy. Mẹ lại tiễn chồng đi làm cách mạng.

Mẹ ở lại Xuân Sơn đào hầm bí mật nuôi cán bộ. Dưới lớp áo của một nông dân chăm chỉ làm ăn, mẹ nắm tình hình địch, báo cho “Đội Công tác đặc biệt”. Mẹ là một hộp thư mật giữa thôn trên sườn núi. Kẻ thù dù có lê máy chém khắp nơi, ra sức dồn dân vào ấp chiến lược, o ép mọi bề nhưng người Xuân Sơn vẫn ngoan cường, quật khởi. Mẹ Nhứt lại lần lượt tiễn đưa các con: Lê Thị Diệu Minh, Lê Văn Tân, Lê Hùng Việt ra trận. Hết con ruột đến con nuôi, con rể tương lai. Tự tay mẹ gói cho đứa con nuôi Trà Văn Thắng bộ quần áo, nắm cơm gia nhập “Giải phóng quân”. Mẹ lại tiễn đưa anh Phạm Thanh Tấn, người yêu của chị Diệu Minh vào “Đội Công tác đặc biệt”.

Khi bị địch phong tỏa, lương thực cho bộ đội trở thành khan hiếm. Mẹ đã dành dụm từng quả mít, nồi cơm nếp, từng chùm bánh lá để sẵn nơi bìa rừng đã quy ước điểm tiếp tế. Ngày hôm sau mẹ quay trở lại với mớ bắp luộc, khoai sắn luộc… Mẹ nhìn vào gốc cây. Nếu như những bọc thức ăn có người lấy đi rồi, mẹ thở phào nhẹ nhõm vì vui mừng. Nhưng có những lúc mẹ lặng người nhìn những gói thức ăn còn nguyên đó. Xa xa, có tiếng súng nổ, bọn địch bố ráp ngăn chặn mọi con đường. Nước mắt mẹ chảy trên má. Mẹ dõi theo hướng tiếng súng, ngực đau thắt vì lo âu. Dự cảm đó của mẹ là đúng. Bao nhiêu lần mẹ đã chít khăn tang lên mái đầu điểm bạc.

Bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Nhứt.

Chị Lê Thị Diệu Minh hy sinh năm 1971 trên dòng sông Sài Gòn. Kể lại những ký ức về đứa con gái thân yêu, tim mẹ vẫn đau nhức. Chị Diệu Minh thoát ly công tác năm 1971 khi mới ngoài 20 tuổi. Chị phục vụ ngành dân y tỉnh. Chị cũng có người yêu là bộ đội, nhưng anh đã hy sinh trong một trận công đồn. Đồng đội chỉ mang được cho chị Minh chiếc áo thủng đầy vết đạn của anh. Chị Diệu Minh hy sinh trong chuyến công tác cuối cùng, trước khi được lệnh ra Hà Nội học bác sĩ. Chiếc xuồng gồm 8 người chở đầy lương thực, thuốc men, hàng hóa rơi vào phục kích của bọn giặc. Chiếc xuồng chở quá tải lại lướt quá nhanh nên bị lật úp. Chị Diệu Minh bị dòng nước cuốn trôi. Chính Giám đốc Bệnh viện Đơn Dương hiện nay đã an táng chị Diệu Minh bên bờ sông Sài Gòn, cùng với chiếc áo đầy vết đạn của người yêu chị mang bên mình. Mãi sau này, đồng đội chị mới tìm được mộ, đưa hài cốt chị về Nghĩa trang liệt sĩ Lâm Đồng. Họ mang về cho mẹ Nhứt chiếc cặp ba lá của cô con gái thương yêu.

Mẹ Nhứt còn giữ nguyên quyển nhật ký của anh Lê Hùng Việt. Nhập ngũ năm 1968, anh Việt hy sinh năm 1972. Đồng đội của anh Việt mang về cho mẹ quyển nhật ký đựng trong chiếc ba lô của anh. Anh ghi lại những bài thơ, bài hát rừng rực bầu nhiệt huyết một thời. Chính những bài thơ ấy đã thôi thúc anh ra đi.

Những đứa con nuôi của mẹ: Anh Trà Văn Thắng, con rể Phạm Thanh Tấn cũng lần lượt hy sinh. Mẹ nói bằng giọng đẫm nước mắt: “Con ruột, con nuôi, con rể, đứa nào cũng là con. Nghe nó hy sinh, ruột mẹ như đứt ra từng đoạn”. Nhưng mẹ đã nén lại đau thương, len lỏi trong hàng ngũ binh lính địch, dùng lời lẽ phải trái để thuyết phục, vận động họ giải ngũ, cung cấp súng đạn cho cách mạng. Dường như có một thứ ánh sáng được soi rọi từ tâm linh để mẹ vượt qua những thứ giết người, hoàn thành công tác liên lạc, dẫn đường tiếp tế của mình. Mẹ nói: “Năm đứa con tôi (ba người con ruột, hai người con nuôi) đã yên nghỉ ở mảnh đất này. Nhưng còn bao nhiêu người con khác, của những bà mẹ khác không tìm được hài cốt. Con chết lòng người mẹ đau đớn khôn lường, đó là lẽ đương nhiên. Nhưng nếu ai cũng sợ nỗi mất mát này thì làm sao có được ngày hòa bình”. Trong đôi mắt của bà mẹ Xuân Sơn còn ẩn chứa một niềm khắc khoải không nguôi. Bìa rừng này, nơi ngày xưa mẹ mang thức ăn cho những đứa con, những chiến sĩ Giải phóng quân vẫn còn đây. Nhưng các anh giờ ở đâu?

Bài và ảnh: Trầm Hương