Tôi đang đứng trước một người thương binh rắn rỏi, có vầng trán cương nghị và nụ cười cởi mở. Ông sinh năm 1950, vào bộ đội năm 1970, từng là Đại đội bậc phó K21, đoàn 2, Bộ tư lệnh Miền ở chiến trường Nam Bộ trong những tháng năm ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Chiến tranh đã qua đi rất lâu rồi mà thân thể ông vẫn còn 20 mảnh đạn chưa lấy ra được. Ông là Trần Anh Thi, hiện là Chủ tịch Hội người mù của huyện Kỳ Anh (Hà Tĩnh).
Tháng 4-1970, nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc, ông nhập ngũ và hành quân vào Nam, tham gia chiến đấu ở nhiều chiến trường: Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Đúng ngày 30-4-1975 lịch sử, trong lúc chỉ huy đơn vị chiến đấu, ông bị một quả M79 nổ gần mặt, nhiều mảnh đạn đã găm sâu vào mắt, vào đầu và cột sống. Ông được chuyển ra Bệnh viện quân y 108 điều trị và nằm liệt giường ở đó gần 3 năm trời. Nhớ lại, ông nói: “Lúc đó ý chí gần như suy sụp hoàn toàn, luôn nghĩ mình là người tàn phế”. Hiện tại, trên cơ thể ông vẫn còn hơn 20 mảnh đạn găm sâu trong mắt, đầu và cột sống, gây ra chứng liệt nửa người. Tôi hỏi:
- Làm thế nào mà bác có thể vượt qua được thử thách lớn như vậy?
Ông bảo:
- Tôi tự động viên rằng, mình còn may mắn hơn nhiều đồng chí đồng đội khác, nên đã quyết tâm vượt qua bệnh tật, cố gắng làm việc để không phụ niềm tin của Đảng, xứng đáng với danh hiệu anh bộ đội Cụ Hồ.
Năm 1987, có cuộc vận động đón thương binh về làng, ông trở về quê hương (xã Kỳ Châu, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh). Thời gian này kinh tế đất nước rất khó khăn, một số cán bộ đảng viên thoái hoá biến chất, nhụt ý chí. Nhưng ông vẫn luôn tâm niệm lời căn dặn của Bác Hồ:
“Thương binh tàn nhưng không phế”. Được đảng viên và bà con tín nhiệm, ông được bầu làm Bí thư đảng ủy. Ông nói:
“Mình hứa với dân, đã nhận nhiệm vụ thì phải hoàn thành cho tốt”. Với tâm huyết đó, ông đã vực Đảng bộ xã Kỳ Châu từ chỗ yếu kém trở thành Đảng bộ vững mạnh.
Tháng 8-1989, ông bị liệt trở lại, nằm viện mất 3 tháng trời. Đó là những năm tháng khó khăn. Khi bị liệt trở lại, ông gần như suy sụp, nghĩ rằng lần này khó có thể vượt qua được. Nhưng rồi một lần nữa, phẩm chất của bộ đội Cụ Hồ đã vực ông dậy. Trong lúc nằm viện, ông đã tự luyện tập sức khỏe, thậm chí nhờ các nhân viên y tá lấy dây buộc vào chân và treo lên, để tự luyện tập. Nhờ ý chí kiên cường đó mà ông đã dần dần hồi phục.
Đến năm 1992, Nhà nước có chủ trương thành lập Trung tâm phục hồi chức năng cho người mù. Huyện đã mời ông lên, giao nhiệm vụ mới. Từ đó ông trở thành Chủ tịch Hội người mù của huyện Kỳ Anh.
Tôi lại hỏi:
- Bác có gì băn khoăn khi nhận nhiệm vụ mới này không?
Ông nói:
- Khi tôi bị thương cả hai mắt, đã từng trải qua thời gian bị mù nên rất hiểu những anh em cùng cảnh ngộ. Tôi đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, tạo điều kiện chăm sóc… bây giờ tôi nghĩ nhiều anh em không có điều kiện sẽ gặp khó khăn, nên cần có những việc làm giúp đỡ họ.
Từ năm 1992 đến nay, ông là Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện Kỳ Anh. Ông đã dạy anh em thương binh và những người khiếm thị học chữ nổi, học việc. Tôi được ông cho xem kho sách chữ nổi khổng lồ mà ông đã dày công nghiên cứu và sưu tầm, có hẳn một thư viện nhỏ. Nhờ có bộ sách đó mà những anh em thương binh và người khiếm thị trong huyện được học hành, được đọc sách, học việc, có công ăn việc làm. Toàn huyện hiện có 89 người khiếm thị sử dụng được, có những người đã sử dụng chữ nổi để thi đậu và học đại học như hai em Hoàng Xuân Lĩnh, Hoàng Xuân Hạnh. Các em Chung, Anh, Lượng đã học hết phổ thông cơ sở. Điển hình như em Nguyễn Văn Chung bị khiếm thị, tàn tật, thi học sinh giỏi huyện được giải nhất môn Hóa, được tặng bằng khen. Ngày 1-6-2008 vừa qua, em đã được gặp Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết.
Ông còn vận động được nhiều nguồn viện trợ về kinh phí trong và ngoài nước. Nhờ vậy, trong thời gian qua Hội đã mở được gần 20 lớp tập huấn và dạy nghề với số lượng gần 300 người, chủ yếu học các nghề: đan, làm quạt, làm chổi, tăm, chăn nuôi, tẩm quất… Ông cho rằng: “Có học được nghề mới nâng cao được dân trí, biết được cách làm ăn, biết chăm sóc bản thân mình và người khác”.
Càng nghe ông kể, tôi càng thêm cảm phục ý chí nghị lực phi thường của một người thương binh tàn mà không phế. Tôi hỏi thăm về cuộc sống gia đình riêng, ông cười, gương mặt chan chứa hạnh phúc: “Gia đình chăm ngoan, cơ quan vững mạnh”. Năm người con của ông, ba đã tốt nghiệp đại học, một đang học đại học và một đang học ở trường chuyên trung học phổ thông.
Ông tâm sự:
- Tôi có lời nguyền với đồng đội khi còn chiến đấu là sau này nếu còn sống trở về, sẽ luôn làm những việc có ích cho đất nước. Cho đến hôm nay, tôi vẫn luôn cố gắng mỗi ngày làm một việc tốt, một ngày giúp đỡ được một người khó khăn. Với tôi, đó là niềm vui, là hạnh phúc lớn.
LÊ TRUNG NGUYÊN