Vợ chồng ông Lương Phong tại Hà Nội. Ảnh: PHẠM VŨ

50 đại biểu Trung Quốc sang Việt Nam tham dự hoạt động giao lưu hữu nghị Việt – Trung mang tên “Gặp gỡ trên quê hương Bác Hồ” lần này đều có chung một hành trang hết sức quý giá, đó là những ký ức sống động và thân thương về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phóng viên báo Quân đội nhân dân đã có cuộc gặp gỡ với họ - những người đồng chí, người bạn thân thiết của Việt Nam – đang lưu giữ những tư liệu vô giá trong thời gian được trực tiếp phục vụ Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Chú phải trau dồi vốn tiếng Việt để phiên dịch cho tốt

Ông Lương Phong, sinh năm 1932 tại Hà Nội, người từng phiên dịch cho Bác Hồ trong gần 20 năm, bồi hồi cảm động mỗi khi nhớ lại quãng thời gian được vinh dự làm phiên dịch cho Bác Hồ và đồng chí La Quý Ba, Trưởng đoàn cố vấn Trung Quốc trong thời kỳ ở Khu ATK Việt Bắc. Tấm gương bình dị, học thức uyên bác và sự ân cần của Bác đã khiến ông vô cùng cảm phục. “Điều cảm động nhất là Bác coi tôi như con cháu, dìu dắt giúp đỡ tôi trong công tác phiên dịch. Nhưng tôi cũng rất... run khi lần đầu tiên được giao nhiệm vụ phiên dịch cho một vị lãnh tụ vĩ đại và tài giỏi như Bác. Khi dịch không đúng, Bác nhắc nhở ngay: “Chú phải cố gắng trau dồi tiếng Việt, nâng cao trình độ tiếng Việt vì như thế mới có thể dịch đúng và chuẩn xác”. Cứ mỗi lần như vậy, ông càng phải tự phê bình, nghiên cứu lại những câu mình đã dịch, đồng thời phải luôn luôn tự học hỏi, rèn luyện để nâng cao vốn tiếng Việt của mình sao cho thật sát với lời nói của Bác. “Những lần phiên dịch sau đó thì Bác nói rằng luôn vừa ý với những lời dịch của tôi. Đó là niềm tự hào lớn nhất mà tôi từng có", ông nói.

Từ năm 1950 đến năm 1968, ông Lương Phong không thể nhớ nổi đã có bao nhiêu lần được làm phiên dịch cho Bác Hồ. Nhưng ông vẫn ấn tượng sâu đậm nhất với lần phiên dịch cho hai lãnh tụ là Bác Hồ và Bác Mao (Chủ tịch Mao Trạch Đông) tại Hàng Châu, Trung Quốc. “Tôi phiên dịch trong gần 4 tiếng đồng hồ. Tại đây, Bác Hồ và Bác Mao thảo luận về tình hình cuộc Cách mạng văn hóa lúc bấy giờ ở Trung Quốc và công cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam. Có thể nói, đây là niềm vinh hạnh lớn lao nhất của cuộc đời tôi". Năm 1953, khi vừa tròn 21 tuổi, ông Lương Phong đã vinh dự được Nhà nước ta trao tặng Huân chương Kháng chiến hạng ba.

Tài sản của dân, phải để cho dân sử dụng

Không được thường xuyên làm phiên dịch cho Bác Hồ như đồng chí Lương Phong, nhưng ông Trương Đức Duy, nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước CHND Trung Hoa tại Việt Nam, cũng có nhiều dịp được tiếp xúc với Bác trên cương vị phiên dịch viên cho Đoàn cố vấn chính trị và quân sự Trung Quốc, được lãnh đạo Trung Quốc cử sang giúp đỡ Quân đội nhân dân Việt Nam mở Chiến dịch Biên Giới năm 1950. Ông nhớ lại: “Ấn tượng đầu tiên của tôi về Bác Hồ chính là phong cách sống giản dị và gần gũi. Những ngày đó, Bác rất hay tới thăm đoàn cố vấn của chúng tôi. Mỗi lần ghé thăm như thế, Bác thường chống gậy tự đi và chỉ có duy nhất một người thư ký theo cùng. Một vị lãnh tụ cao quý như thế, ở các nước khác, đáng lẽ phải có bao nhiêu cố vấn, bảo vệ hay thư ký hầu cận, tôi cho rằng đó thật là một điều đáng quý và hiếm thấy”.

“Nếu được yêu cầu kể một câu chuyện ngắn để nói về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, ông sẽ kể câu chuyện gì?”, tôi hỏi. Ông Trương Đức Duy xúc động nói: “Tôi còn nhớ, khi đó mới giải phóng Thủ đô, Bác về tới Hà Nội. Các cán bộ của Bác lúc đó bố trí để Bác ở tại Dinh toàn quyền Pháp. Bác liền từ chối bởi theo Bác “đó là tài sản của dân, phải để cho dân sử dụng, tôi không thể ở chỗ này”. Sau đó Bác đã chọn một căn phòng trước đây là chỗ ở của công nhân ngành điện và đề nghị chỉ cần kê cho Bác một chiếc giường và một chiếc bàn làm việc. Tôi thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh quả thật là một tấm gương giản dị và cao quý”.

Canh giấc ngủ cho đến lúc Người lâm chung

Ông Viên Khang Anh, người từng ở Việt Nam 17 năm (1963-1980), cán bộ thuộc đoàn chuyên gia y tế Trung Quốc được lãnh đạo Đảng và Chính phủ Trung Quốc cử sang Việt Nam chăm sóc sức khỏe Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người bắt đầu lâm trọng bệnh vào năm 1969, đã không nén nổi xúc động khi trò chuyện với phóng viên báo Quân đội nhân dân về thời gian ông được gần gũi bên cạnh Bác, chăm sóc từng miếng ăn, giấc ngủ cho Bác. Năm đó, mặc dù còn khá trẻ (29 tuổi) nhưng lại là người tương đối thông thạo tiếng Việt, nên ông Khang Anh đã được tin tưởng giao nhiệm vụ túc trực bên cạnh Bác Hồ và báo cáo thường xuyên về tình hình bệnh tình của Bác trực tiếp cho Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai. Bản thân ông lúc đó cũng coi đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và cấp bách.

Ông kể: “Năm đó Bác bị viêm phổi nặng. Khi được lãnh đạo hai nước phê duyệt việc sử dụng một loại thuốc mới của Trung Quốc, bệnh tình của Bác thuyên giảm nhiều. Tôi đã rất xúc động khi được lãnh đạo Đảng và Chính phủ Việt Nam bắt tay và động viên tiếp tục cố gắng. Tuy nhiên loại thuốc này chỉ có tác dụng kiềm chế bệnh và không có hiệu quả sử dụng như thuốc kháng sinh pê-ni-xi-lin. Chuyên gia y tế hai nước đã bàn bạc rất nhiều về phương pháp sử dụng kháng sinh tiêm trực tiếp vào tĩnh mạch tay của Bác thay vì uống để nâng cao hiệu quả chữa trị. Nhưng khó khăn ở chỗ việc tiêm kháng sinh vào tĩnh mạch tay sẽ gây biến chứng cho tim, nên cuối cùng chúng tôi đã thống nhất sử dụng loại thuốc mới để tiêm vào tĩnh mạch ở chân của Bác. Hồi hộp và lo lắng chỉ qua đi sau khi tiêm thành công, sắc diện của Bác đã hồng hào trở lại. Lúc đó chúng tôi mừng không sao tả xiết”.

Nỗi hân hoan chưa được bao lâu thì tin dữ đã ập đến. Ông Khang Anh bàng hoàng nhớ lại: “3 giờ sáng ngày 2-9-1969, chứng viêm phổi của Bác lại trở nặng. Tôi không dám ngủ và liền đến túc trực bên giường bệnh của Bác cùng với các đồng chí Việt Nam. Bầu trời lúc đó sáng trong, quang đãng, nhưng sau đó (5 rưỡi sáng) mây đen bỗng bất ngờ kéo đến, trời bắt đầu đổ mưa tầm tã. Tôi vẫn không sao quên được cảm giác bất an khi đó và rất lo lắng cho bệnh tình của Bác. Hơn 6 giờ sáng, tôi nhìn vào màn hình đo nhịp tim của Bác và bỗng cảm thấy chính tim mình đang quặn thắt, bởi trên màn hình chỉ còn xuất hiện một đường thẳng mong manh. Chúng tôi nhủ thầm Bác đã mãi mãi đi xa”. Với những cống hiến đặc biệt trong quá trình chăm sóc Bác Hồ, ông Viên Khang Anh đã vinh dự được Chủ tịch Tôn Đức Thắng trao tặng Huân chương Lao động hạng Hai và Huy chương Hữu nghị.

Trong đoàn đại biểu Trung Quốc lần này, mỗi người đều có những kỷ niệm riêng và sâu sắc về Bác Hồ. Nhưng ấn tượng chung đọng lại trong ký ức của họ chính là tấm gương giản dị, thái độ quan tâm ân cần và học thức uyên thâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bà Lưu Tuyết Minh, y tá chăm sóc Bác Hồ trong những ngày cuối cùng trước khi Bác vĩnh viễn ra đi nói: “Đó là hình ảnh của một vị Cha đáng kính, một vị lãnh tụ gần gũi và chân thành. Dường như đứng trước Người, tôi không cảm thấy có một khoảng cách nào giữa một vị lãnh tụ và người dân bình thường. Trong tôi, hình ảnh Người thật bình dị và thân thiết. Thật hiếm có một vị lãnh tụ nào trên thế giới có thể có một bề dày tri thức và học vấn như Chủ tịch Hồ Chí Minh”.

Linh An – Lê Anh Phương

(thực hiện)