Kỳ 5: Xứng đáng là người con của biển

QĐND Online - Đại tá Phạm Duy Tam - Nguyên Phó tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân chính là người đã có 7 lần vượt biển trên con tàu không số chở vũ khí vào chiến trường miền Nam. Ông cũng là người vinh dự được giao trọng trách chỉ huy tàu 675 thần tốc hành quân trong điều kiện sóng to, gió lớn, vượt gần 500 hải lý để cùng với các lực lượng dũng cảm truy kích địch và giải phóng hoàn toàn quần đảo Trường Sa vào rạng sáng ngày 29-4-1975.

Người 7 lần “truy điệu sống”

Chiến tranh đã đi qua hơn 1/3 thế kỷ, nhưng dường như kỷ niệm về những năm tháng lênh đênh trên con tàu không số vượt biển “tiếp máu” cho chiến trường miền Nam chưa bao giờ phai nhạt trong tâm trí Đại tá Phạm Duy Tam.

Chân dung Đại tá Phạm Duy Tam. 

Ông quê Hải Trạch, Bố Trạch (Quảng Bình). Tuổi thơ gắn liền với biển cả, nên lớn lên ông trở thành lính thủy, rồi sau đó tốt nghiệp sĩ quan hải quân, đến năm 1969 thì về nhận công tác tại Đoàn tàu không số, được bổ nhiệm Phó Thuyền trưởng tàu 42.

Ngày còn giữ chức Phó chỉ huy trưởng Vùng 3 Hải quân ông là người thường xuyên sâu sát kiểm tra, bám nắm tình hình cơ sở. Những lần như thế cánh lính trẻ thường yêu cầu thủ trưởng kể chuyện về đoàn tàu không số. Trước khi kể bao giờ ông cũng không quên câu “nhắc khéo”: “Các cậu bây giờ quá sướng, chứ hồi “tớ” làm gì có được tàu to, trang bị vũ khí, máy móc, khí tài hiện đại như bây giờ. Vì thế “các cậu” phải lo mà bảo quản cho thật tốt để dùng bền đó!”.

Cánh lính trẻ đồng thanh: “Thưa thủ trưởng, chúng em sẽ cố gắng”, rồi mắt tròn, mắt dẹt lắng nghe. Ông kể: “Ngày ấy vượt biển, trên tàu chỉ có chiếc la bàn từ, đồng hồ thiên văn, máy 1/6 dùng để đo mặt trời, trăng, sao và một bộ tính thiên văn, không có định vị, la bàn con quay, máy đo sâu, máy tính đường, máy móc thông tin liên lạc chủ yếu đánh moóc tạch tè. Để phục vụ cho mỗi chuyến đi, tàu phải chuẩn bị đầy đủ một tháng lương thực, thực phẩm, nhiên liệu, nước uống... Cán bộ, thủy thủ còn tranh thủ thời gian huấn luyện sử dụng các loại vũ khí, luyện tập xử lý tình huống có thể xảy ra trên biển, các phương án rời tàu, đánh bộc phá khi cần phá hủy tàu….

Do tính chất thực thi “nhiệm vụ đặc biệt”, vì thế trước khi vượt biển, tổ chức làm lễ “truy điệu sống” cho tất cả thủy thủ trên tàu không số. Cấp trên và những người ở lại coi chúng tôi là những chiến sỹ cảm tử quân. Nguyên tắc bất di bất dịch là phải giữ cho bằng được bí mật của con đường. Trường hợp bị địch phát hiện, truy kích, không thoát khỏi vòng vây của chúng thì phải tự dùng bùng bộc phá để hủy tàu, không để người và vũ khí rơi vào tay giặc.

Cứ thế, những con tàu không số âm thầm, lặng lẽ ra đi. Phía trước là bão tố, chông gai, là bom rơi, đạn nổ và mất mát, hi sinh. Phía sau là tiếng gọi quê hương thôi thúc. Do vậy mỗi lần đi chẳng ai biết trước số phận mình sẽ ra sao. Sự sống và cái chết quá mong manh vì tàu ta thì bé nhỏ mà biển khơi thì bao la, đã vậy kẻ thù luôn rình rập ngày đêm.

Đại tá Phạm Duy Tam (thứ 3 từ phải sang) cùng đồng đội thăm di tích đường Hồ Chí Minh trên biển. 

Lễ “truy điệu sống” diễn ra trang nghiêm. Những người ở lại từ thủ trưởng Bộ Tư lệnh cho tới đồng đội đều không cầm được lòng mình. Nhưng chúng tôi – thủy thủ của tàu không số chẳng mấy ai sờn lòng. Chúng tôi hiểu, mỗi khẩu súng, thùng đạn, hộp thuốc... được vận chuyển vào chiến trường miền Nam là quý giá vô ngần. Vì thế 100% cán bộ, thủy thủ đều quyết tâm lên đường...”.

Gần chục năm lênh đênh cùng các con tàu không số vượt biển, Đại tá Phạm Duy Tam có 7 lần được “truy điệu sống”. Nhưng điều kỳ diệu là những chuyến đi của ông và đồng đội nhiều lần gặp bão tố và sự theo dõi gắt gao của kẻ địch nhưng nhờ sự mưu trí, khôn khéo và tinh thần quả cảm, họ đã vượt qua tất cả để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ...

Thần tốc, giải phóng Trường Sa

Nhân dịp Đại tá Phạm Duy Tam về Đà Nẵng thăm gia đình, tôi đã gặp và đề xuất ông kể lại chuyến vượt biển giải phóng Trường Sa năm ấy. Vốn là sỹ quan cấp dưới của ông từ hồi còn ở Vùng 3 Hải quân, thế nên khi tôi đề đạt “nguyện vọng” là ông “chiều” ngay.

Và câu chuyện ông kể như thước phim quay chậm giúp tôi hiểu thêm về biên đội tàu ngày ấy thần tốc vượt biển, giải phóng Trường Sa... “Hai tuần sau ngày thành phố Đà Nẵng được giải phóng, tôi được Bộ Tư lệnh Quân chủng giao nhiệm vụ làm biên đội trưởng một biên đội tàu cá giả dạng (tàu không số) hành quân cấp tốc từ Hải Phòng vào quân cảng Tiên Sa (Đà Nẵng). Cấp trên xác định, lực lượng của chúng tôi là mũi tiến công duy nhất trên hướng biển do các đoàn tàu không số (Đoàn 125) được lệnh phối hợp cùng lực lượng đặc công nước và Sư đoàn 2 bộ binh, Quân khu 5.

Đúng 4 giờ ngày 11-4-1975, biên đội ba tàu 675, 673 và 674 lên đường. Chuyến đi ấy ngoài chức trách là biên đội trưởng, tôi còn làm Thuyền trưởng tàu 675. Đồng chí Nguyễn Xuân Thơm – Thuyền trưởng tàu 673. Còn tàu 674 do đồng chí Nguyễn Văn Đức làm Thuyền trưởng. Do tính cấp thiết của nhiệm vụ nên biên đội tàu chúng tôi chạy hết công suất, thẳng hướng đảo Song Tử Tây. Chuyến đi ấy gió lớn trong khi tàu ta là loại tàu nhỏ nên bị sóng quần cho tơi tả. Tất cả thành viên vẫn phấn chấn vì được ra giải phóng Trường Sa là niềm vinh dự quá đỗi tự hào của người chiến sỹ. Những cơn sóng biển đổ chụp xuống con tàu, ai cũng say sóng nhưng vẫn kiên cường bám trụ. Lực lượng đặc công thủy nằm bẹp dưới hầm tàu để tránh bị phát hiện. Anh em say sóng lừ đừ nhưng vẫn ráng chịu đựng. Biển sóng to, gió lớn trong khi tàu ta bé nhỏ, mọi người quyết định vẫn mở hết công suất máy. Rồi một chiếc tàu bị hỏng máy. Khó khăn hơn, cả đội tàu không thể liên lạc được với sở chỉ huy tiền phương của Bộ tư lệnh Quân chủng đóng ở Đà Nẵng. Trước tình hình đó, chúng tôi vượt biển bằng la bàn, dõi theo con nước và ngắm sao trời... Sau 3 ngày đêm vật lộn với sóng, gió vượt gần 500 hải lý, chúng tôi đã thấy đảo Song Tử Tây như một chấm nhỏ xa mờ. Ngày đó các đảo còn thấp lè tè, chiều cao chỉ từ 1,5m đến 4,5m so với mặt nước biển. Ban ngày phát hiện đã khó, ban đêm lại càng khó hơn vì đảo không có điện, lại nhấp nhô giữa biển nước mênh mông biết đâu là đảo có quân đội ngụy quyền Sài Gòn chiếm giữ”.

Đại tá Phạm Duy Tam (thứ 3 từ trái sang) cùng đồng đội ra thăm Trường Sa nhân kỷ niệm 20 năm ngày giải phóng quần đảo.

Đại tá Phạm Duy Tam bỗng hạ giọng: “Ngày đó, chúng tôi được trên chỉ thị là tuyệt đối không đánh nhầm. Đây là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn bởi máy móc, thiết bị hàng hải mà ta có được lúc đó quá thô sơ. Cuối cùng bằng kinh nghiệm, chúng tôi cũng phát hiện quân đội Sài Gòn chiếm giữ những đảo nổi của Trường Sa. Trong đó đảo Nam Yết là sở chỉ huy với lực lượng lên đến 60 lính; các đảo Song Tử Tây, Trường Sa Lớn đều có 40 lính; các đảo Sơn Ca, Sinh Tồn, An Bang có 20 lính… Thời cơ ngàn năm có một đã tới, biên đội nhanh chóng triển khai đội hình chiến đấu. Hai tàu 674 và 673 án ngữ phía Bắc đảo 15 hải lý đề phòng đối phương từ phía Bắc xuống và nghi binh hai tàu chiến của ngụy đang lởn vởn ở khu vực đảo Nam Yết. Tàu 675 do tôi chỉ huy bí mật tiếp cận gần mép san hô của đảo, rồi thả xuồng cao su, lần lượt chở bộ đội đặc công nước do đồng chí Nguyễn Ngọc Quế (Đội trưởng Đội 1 – Đoàn 126) chỉ huy đổ bộ lên đánh chiếm đảo.

Đúng 4 giờ 30 phút, ngày 14-4-1975, ta bất ngờ đồng loạt nổ súng, tiêu diệt 7 tên, bắt sống 33 tên, giải phóng hoàn toàn đảo Song Tử Tây. Ngay trong đêm đó, tôi tiếp tục chỉ huy tàu chở tù binh từ đảo Song Tử Tây về Quân cảng Đà Nẵng an toàn. 10 ngày sau, tàu 641 (Đoàn 125) tiếp tục chở phân đội đặc công nước do đồng chí Đỗ Viết Cường (Đội phó Đội 1- Đoàn 126) đổ bộ đánh chiếm và giải phóng đảo Sơn Ca, bắt sống 17 tên ngụy. Thừa thắng xông lên, quân ta tấn công giải phóng đảo Nam Yết.

Đúng 2 giờ sáng ngày 29-4-1975 trên hướng tiến công đường biển ta đã kéo cờ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, giải phóng những đảo thuộc quần đảo Trường Sa do ngụy quyền Sài Gòn chốt giữ. Ngày đó, ngắm nhìn lá cờ Tổ quốc phần phật tung bay trên các đảo tiền tiêu, chúng tôi ồm chầm lấy nhau, niềm vui vỡ òa trên từng gương mặt. Thắng lợi trên mặt trận Biển Đông, giải phóng Trường Sa góp phần quan trọng vào chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc”...

Những kỷ niệm của một thời chiến tranh vẫn tươi nguyên trên khuôn mặt dạn dày sương gió của người thuyền trưởng 7 lần “truy điệu sống”. Tuy trở về với đời thường, nhưng người cựu binh già vẫn còn nặng nợ với “binh nghiệp”. Ngôi nhà ông là địa chỉ tin cậy mà thế hệ sỹ quan trẻ hôm nay tìm đến học hỏi, trau dồi kinh nghiệm và bản lĩnh của người thủy thủ. Và trong con mắt họ, bao giờ ông cũng xứng đáng là người con của biển...

---------------

Kỳ 1: Trận đánh quyết tử và những dòng ghi trong "Nhật ký Đặng Thùy Trâm"

Kỳ 2: Hai nửa cuộc đời của máy trưởng Phan Nhạn

Kỳ 3: Vũng Rô - đêm giao thừa năm ấy

Kỳ 4: Nhớ mãi tên anh

 

Kỳ 6: Tên anh thành bất tử

Bài và ảnh: Phan Tiến Dũng