Kỳ hai: Hai nửa cuộc đời của máy trưởng Phan Nhạn

QĐND Online - Mỗi lần vượt biển chở vũ khí vào miền Nam, những thủy thủ tàu không số đều xác định ra đi không hẹn ngày trở lại. Họ được tổ chức truy điệu sống trước lúc xuất bến. Vậy mà nhờ vào sự mưu trí, kiên cường và lòng quả cảm, một máy trưởng đã cùng đồng đội thực hiện 15 chuyến vượt biển, băng qua mưa bom, bão đạn của kẻ thù, vận chuyển hàng ngàn tấn vũ khí, đạn dược vào tiền tuyến lớn miền Nam. Bây giờ ở tuổi 80 con người huyền thoại ấy vẫn đang khó nhọc bươn chải giữa đời thường…Ông là Phan Nhạn – máy trưởng các tàu 41, 43. 56 (Đoàn tàu không số) năm xưa...

Vinh quang thời hoa lửa

Chìm khuất trong con hẻm mịt mù bụi than, ngôi nhà cấp 4 của ông Phan Nhạn thấp lè tè. Tiết trời cuối thu vậy mà không khí ngột ngạt đến khó thở. Đang tắm cho đứa cháu ngoại, thấy chúng tôi đến, ông dừng tay: “Bố mẹ bọn trẻ chia tay, tôi đành vừa làm ông vừa làm cha của chúng!”.

Tuy bận rộn nhưng ông cũng “ưu ái” dành thời gian để kể cho chúng nghe về hai nửa cuộc đời của ông...

“Tháng 3-1962, tôi được cấp trên điều về Đoàn 759 (Đoàn tàu không số). Sau đó biên chế v tàu 02 do đồng chí Nguyễn Dạt làm thuyền trưởng. Vốn quen nghề sông nước lại có tay nghề cơ khí, cấp trên tin tưởng giao cho tôi giữ chức máy trưởng, kiêm tổ trưởng tổ bộc phá. Được giao nhiệm vụ như vậy là tự hào lắm, bởi tàu 02 đi tiên phong mở màn cho chiến dịch “đường Hồ Chí Minh trên biển”. Không ai bảo ai nhưng chúng tôi đều mong chờ ngày vượt biển.

Ông Nhạn (áo sẫm) cùng đồng đội về thăm lại chiến trường xưa.

Và ước mơ cháy bỏng đã thành hiện thực, ngày 16-10-1962, tàu 02 nhận lệnh chở 20 tấn vũ khí vào vùng biển Cà Mau. Dẫu biết rằng chuyến đi vô cùng nguy hiểm nhưng ai nấy đều háo hức, bởi chúng tôi biết mỗi khẩu súng, viên đạn chi viện cho chiến trường miền Nam là rất quý. Đúng 23 giờ 45 phút, tàu 02 lặng lẽ rời Cảng Đồ Sơn - Hải Phòng ra khơi. Theo hải trình, tàu 02 sẽ đi qua đảo Hải Nam, rồi vòng ra phía ngoài quần đảo Hoàng Sa ở vùng hải phận quốc tế để tránh sự kiểm soát gắt gao của máy bay và tàu chiến Mỹ nhằm đảm bảo tuyệt đối bí mật cho cuộc hành trình. Thế nhưng, tàu 02 ra khơi chừng gần chục hải lý thì gặp gió mùa Đông Bắc giật cấp 5, cấp 6. Những đợt sóng hung hãn chồm lên, chiếc tàu gỗ tròng trành, chao đảo. Tất cả thủy thủ áo quần sũng nước, tơi tả. Máy chính, máy phụ hoạt động hết công suất nhưng con tàu vẫn ỳ ra, khó có thể tiếp tục vượt biển theo lý trình như dự kiến ban đầu. Trước tình hình đó, thuyền trưởng Nguyễn Dạt điện về đất liền xin cho tàu chuyển hướng đi gần quần đảo Hoàng Sa. Đây là một quyết định mạo hiểm vì đi vào vùng này gần đất liền, dễ bị tàu địch phát hiện, nhưng cũng chẳng còn phương án nào tốt hơn. Được sự nhất trí của trên, chúng tôi cho tàu chuyển hướng. Gần 2 giờ đồng hồ vật lộn với sóng gió, tàu gặp sự cố mất liên lạc với sở chỉ huy. Trong lúc nguy nan, anh em vẫn bình tĩnh, mưu trí điều khiển tàu vượt qua vĩ tuyến 17 ngay trước mũi tàu chiến Hạm đội 7 của Mỹ thường xuyên sục sạo, theo dõi.

Trên chuyến vượt biển gian nan ấy, ban ngày chúng tôi giả làm ngư dân thả lưới đánh cá, ngụy trang lừa địch. Tối đến cho tàu tăng tốc nhằm thoát khỏi sự đeo bám của chúng. Hành quân đến ngày thứ 6 thì đồng chí nhân viên hải đồ thông báo, tàu ta chỉ còn cách vùng biển Cà Mau khoảng gần 200 hải lý, như vậy là chậm hai ngày so với dự kiến. Theo kế hoạch, để giữ bí mật cho bến, tàu chỉ vào thả hàng trong thời gian ngắn rồi ra ngay trước khi trời sáng. Thế nhưng, sau gần 3 giờ đồng hồ, chúng tôi vẫn không bắt liên lạc và nhận được tín hiệu gì từ bến. Lúc này, các thủy thủ hết sức lo lắng. Nếu không vào bến ngay trong đêm, thì bắt buộc tàu phải chạy ngược ra vùng biển quốc tế, đợi đến đêm hôm sau mới vào lại. Nếu như vậy thì rất nguy hiểm vì tàu địch sẽ phát hiện tàu ta. Kim đồng hồ nhích dần tới 4 giờ 20, chúng tôi đang chuẩn bị cho tàu quay ra vùng biển quốc tế thì phát hiện bên mạn trái có một chiếc ghe. Thuyền trưởng Dạt ra lệnh dừng máy. Biết chắc đấy là ghe đánh cá của ngư dân vùng giải phóng nên chúng tôi nhờ họ dẫn đường vào bến an toàn. Gặp nhau, thủy thủ tàu không số và những người ở bến cảm động, ôm nhau khóc ròng. Hôm đó, anh Tư Đức, bến trưởng đã thốt lên: “Tàu của các anh đúng là con tàu huyền thoại”.

Sau này nghe các anh ở bến kể lại, chúng tôi mới biết, do sự cố tàu 02 mất liên lạc, nên sở chỉ huy đã điện thông báo tình hình cho bến và hẹn thời gian đón tàu. Nhận điện, các đồng chí ở bến bố trí người túc trực suốt ngày đêm từ Gành Hào đến mũi Cà Mau để đón tàu nhưng chờ hơn một ngày đêm mà vẫn không thấy tăm hơi. Vì thế anh em tại bến tưởng tàu chúng tôi gặp nạn, tất cả thủy thủ đã hi sinh, nên công tác đón tàu được hủy bỏ…”.

Từ chuyến vượt biển đầu tiên thắng lợi, Phan Nhạn tiếp tục được điều về giữ chức máy trưởng các tàu 41, 43, 56…Thời gian từ năm 1962 - 1968, ông đã 15 lần vượt biển trên các con tàu không số chở vũ khí vào chiến trường miền Nam. Tàu 41 được tuyên dương danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân... Trong số những con tàu ông tham gia, có nhiều người trên tàu 41 được Đảng và Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân...

Nhọc nhằn kế mưu sinh

Ông Nhạn nhìn về bức chân dung người phụ nữ phúc hậu trên bàn thờ, giọng nghèn nghẹn: “Vợ chồng sống với nhau chẳng được là bao! Từ ngày bà ấy đi xa, nhiều lúc tôi tưởng mình không thể nào qua khỏi!”.

Tôi hiểu nỗi buồn trong mắt người cựu binh tàu không số, bởi chuyện tình của ông rất đẹp nhưng cũng đầy vất vả, truân chuyên... Năm 1969, sau lần vượt biển trở về, ông nghỉ ngơi, học tập tại Đồ Sơn (Hải Phòng). Trai xứ Quảng chưa vợ lại to cao, đẹp trai, vậy mà ông vẫn “lính phòng không” vì mỗi lần tiếp xúc với con gái là lúng ta, lúng túng như “gà mắc tóc”. Mãi cho tới khi bạn bè giới thiệu, ông mới chịu làm quen người con gái xứ Huế có mái tóc dài óng ả, giọng nói dễ thương. Hồi ấy bà Hoàng Thị Khâm là công nhân Xí nghiệp dày da Hải Phòng. Yêu nhau chưa đầy một năm thì họ nên duyên chồng vợ. Đám cưới giản dị, ấm nồng trong vòng tay bạn bè của cô dâu và đồng đội của chú rể.

Tuổi 80, ông Nhạn vẫn cùng chiếc xe đạp bươn chải giữa cuộc đời. 

Đất nước thống nhất, ông chuyển gia đình vào Nha Trang. Thành phố sau ngày giải phóng với bao nỗi bộn bề, người dân gồng mình khắc phục, hàn gắn vết thương chiến tranh. Vợ chồng ông cùng ba đứa con tá túc trong căn phòng tập thể chật chội. Tiền lương hai người gộp lại chưa đủ mua chiếc lốp xe đạp. Bà lại bị bệnh tim bẩm sinh nên đau ốm liên miên. Ông xoay trở đủ nghề kiếm tiền chữa bệnh cho bà. Dẫu cuộc sống còn vất vả, nhưng gia đình ông đầy ắp tiếng cười. Niềm vui ấy cũng chỉ được một thời gian, bởi năm 1991, bà Khâm qua đời để lại 3 đứa con thơ dại. Thời điểm này ông Nhạn xin về hưu sớm để lo lắng nuôi con ăn học. Phần đau buồn vì người vợ thân yêu về cõi vĩnh hằng, phần vì vết thương cũ tái phát, ông Nhạn tưởng chừng không qua khỏi, nhưng nhớ lời trăng trối của vợ trước lúc đi xa, ông gắng gượng sống để nuôi con.

Điều làm ông day dứt nhất là vì điều kiện kinh tế quá eo hẹp nên không thể lo cho con vào làm việc ở những nơi có mức lương khá giả. Bây giờ ba người con của ông vẫn chưa có nghề nghiệp ổn định, thu nhập bấp bênh. Vợ chồng cô con gái lớn chia tay, hai đứa cháu ngoại về ở hẳn với ông. Nhẽ ra ở tuổi “xưa nay hiếm” được hưởng cuộc sống an nhàn, đằng này ông vẫn lọ mọ lo lắng cơm nước, tắm giặt cho mình và hai cháu ngoại. Có thể nói, ông Phan Nhạn là thủy thủ tàu không số có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nhất hiện nay. Ở tuổi gần 80, ông vẫn tá túc trong căn nhà cấp 4 xập xệ chừng 40 mét vuông. Tài sản quý giá nhất của ông là bức chân dung người vợ và tấm Huân chương chiến sỹ Giải phóng hạng Nhất trang trọng lồng trong khung kính...

Tuy sóng gió cuộc đời là vậy, nhưng ông vẫn phát huy phẩm chất của người thủy thủ tàu không số. Hiện ông vẫn là tổ trưởng dân phố. Hằng ngày ông túc tắc trên chiếc xe đạp cà tàng đến vận động bà con chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước. Thỉnh thoảng ông đến phường Phước Long, trường tiểu học Võ Thị Sáu nói chuyện truyền thống cho thế hệ trẻ. Bằng tấm gương mẫu mực của mình, ông đã cảm hóa được nhiều thanh niên hư hỏng tiến bộ. Ông cười vui: “Làm cái chức tổ trưởng dân phố là “quyền rơm, vạ đá” nhưng mình là cán bộ, đảng viên phải gương mẫu thì bà con mới tin tưởng!”.

Đang nắng chói chang, bỗng dưng trời tối sầm lại. Phố biển Nha Trang sắp nổi cơn giông. Chúng tôi chào ông Nhạn để về cho kịp tránh cơn mưa. Nhìn dáng người thủy thủ tàu không số năm xưa tất tưởi lo chuẩn bị xô, chậu để hứng nước, tôi thấy thương ông vô cùng. Biết đến bao giờ ông mới có điều kiện xây một ngôi nhà tử tế để thoát cảnh “mưa dột, nắng xiên” trong phần đời còn lại?.

Kỳ 1: Trận đánh quyết tử và những dòng ghi trong “Nhật ký Đặng Thùy Trâm”

Kỳ 3: Vũng Rô – Đêm giao thừa năm ấy

Bài, ảnh: Phan Tiến Dũng