QĐND - Trong buổi ra mắt chương trình “Về chiến trường xưa, tri ân đồng đội” nhân kỷ niệm 40 năm Chiến dịch Quảng Trị, tôi đặc biệt chú ý đến bài phát biểu của nhà báo, cựu chiến binh Trịnh Duy Sơn, Tổng đạo diễn chương trình này. Anh không nói nhiều về những ngày đỏ lửa, bi tráng năm 1972 mà trăn trở về những số phận của đồng đội sau cuộc chiến, trong đó có câu chuyện xúc động về hai người chiến sĩ của anh quê ở Bắc Ninh. Nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu trong bài nói chuyện ngay sau đó cũng nói: “Câu chuyện của đồng chí Trịnh Duy Sơn khiến chúng ta không thể không suy nghĩ”…
 |
Niềm vui của những cựu chiến binh Quảng Trị sau 40 năm gặp lại (từ trái qua phải: Nguyễn Văn Thuận, Hoàng Hữu Thê, Nguyễn Văn Trọng). Ảnh: Ngọc Phúc. |
Theo lời hẹn, tôi theo anh Sơn về quê hương Quan họ mà như anh tâm sự: “Về đấy, anh sẽ hiểu hơn những gì tôi đã nói”. Cùng đi với chúng tôi trong chuyến xe hôm ấy có Thiếu tướng, Anh hùng LLVT nhân dân Lê Xuân Tấu, nguyên Tư lệnh Binh chủng Tăng-Thiết giáp, thành viên Ban tổ chức “Về chiến trường xưa, tri ân đồng đội”, Đại tá Hoàng Hữu Thê, nguyên Đại đội trưởng Đại đội 10, Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 165, Sư đoàn 312 trong Chiến dịch Quảng Trị. Họ nóng lòng mong gặp lại đồng đội ở quê hương Quan họ sau 40 năm không tin tức…
Dũng sĩ bắn 14 quả B40 và mảnh đạn sau 40 năm
- Thuận ơi, Trọng ơi! Nhận ra không, Sơn đây, Thê đây?
Vừa bước xuống xe, nhà báo Trịnh Duy Sơn và Đại tá Hoàng Hữu Thê đã ào xuống ôm lấy hai người chiến sĩ của mình.
- Anh Sơn chính trị viên, anh Thê xê trưởng phải không? Chúng em tưởng không còn gặp lại hai anh nữa.
- Các anh cũng nghĩ là bọn em đi rồi đấy…
Những mái đầu nhuốm bạc và gương mặt dạn dày sương gió, bỗng chốc vỡ òa và nhòe đi trong cảm xúc của những đồng đội một thời sinh tử sau 40 năm gặp lại. Nén lại tình cảm đang ầng ậc trong đôi mắt, anh Sơn nói với chúng tôi: “Các nhà báo ạ, đây chính là hai nhân vật tôi đã kể hôm ở Hà Nội đó. Nếu không có chương trình và cuộc kiếm tìm nhân 40 năm Chiến dịch Quảng Trị, chắc là chúng tôi không còn gặp lại nhau. Năm trước về thăm lại làng Như Lệ, nơi chiến trường xưa của đơn vị, tôi làm bài thơ “Về Như Lệ”, trong đó có đoạn: “Nhớ bao trận đánh cam go/ Cả đại đội chỉ còn ba bốn người/ Thuận ơi, Trọng hỡi, Hồng ơi/ Các bạn hiện ở phương trời nào đây? Có còn nhớ mảnh đất này/ Với bao đồng đội nằm đây canh trời”. Bài thơ ấy đã tình cờ đến với đồng đội và chúng tôi đã hỏi được thông tin về nhau”. Đại tá Hoàng Hữu Thê nói thêm: “Đây là hai chiến sĩ xuất sắc của đơn vị. Đặc biệt là Nguyễn Văn Thuận, chiến đấu rất dũng cảm, có trận một mình bắn tới 14 quả đạn B40, tiêu diệt hàng chục tên địch. Chưa đầy 6 tháng ở chiến trường, từ chiến sĩ, Thuận đã phát triển lên giữ cương vị đại đội phó”.
Nguyễn Văn Thuận nhập ngũ khi vừa 17 tuổi. Tháng 7-1972, trong đội hình của Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 165, Sư đoàn 312, anh vượt sông Ba Lòng vào tham gia chiến đấu tại chiến trường Quảng Trị. Ngày 8-8, sau khi đánh chiếm và làm chủ làng Như Lệ (huyện Hải Lăng), một tổ gồm anh Sơn, chính trị viên đại đội và các chiến sĩ Thuận, Trọng, Hồng (thông tin) được giao ở lại chốt vị trí tiền tiêu vừa chiếm. Sau đó, Nguyễn Văn Thuận được điều sang Đại đội 10 của Tiểu đoàn 6. Đại tá Hoàng Hữu Thê nhớ lại: “Tôi và Thuận có “duyên” với nhau, là một cặp “trưởng-phó” từ trung đội đến đại đội. Thuận chiến đấu rất “cừ” và tiến bộ nhanh. Trong trận đánh ở Động Ông Gio vào cuối năm 1972, Thuận là trung đội trưởng, đã chỉ huy đơn vị chốt giữ 2 ngày, 3 đêm. Một buổi sáng đã đẩy lui 3 lần tiến công của địch trong điều kiện quân số chưa còn đầy một tiểu đội. Bản thân Thuận vừa chỉ huy, vừa trực tiếp chiến đấu ở chính diện tiền duyên. Anh xếp đạn dọc giao thông hào và liên tục cơ động chiến đấu, bắn tổng cộng 14 quả đạn B40 (bình thường trong thời gian như vậy, một người chỉ bắn được từ 3-4 quả), hiệu suất chiến đấu rất cao. Trong ngày hôm đó, trinh sát của ta thu thập được tin của địch tổng hợp, đã có 32 tên bỏ mạng tại khu vực phòng ngự của Nguyễn Văn Thuận. Tiếp đó, Thuận còn lập công trong trận đánh ở Điểm cao 134 (thuộc huyện Hải Lăng), một mình đẩy lùi một tiểu đội địch khi chúng bất ngờ đột nhập vào điểm chốt của đơn vị. Do chiến đấu xuất sắc, chỉ với hơn một năm tuổi quân, Thuận đã là đại đội phó, 19 tuổi đời, anh được phong quân hàm thiếu úy. Trong đơn vị tôi lúc đó, Thuận là cán bộ trẻ nhất và chiến đấu nổi bật nhất”.
Cùng quê và nhập ngũ cùng ngày, cùng đơn vị với Nguyễn Văn Thuận là Nguyễn Văn Trọng. Những câu chuyện chiến đấu không chỉ còn trong ký ức người cựu chiến binh mà còn ở những vết đạn trong cơ thể vẫn nhoi nhói như nhắc nhở anh mỗi khi trái gió trở trời. Anh bảo, những vết đạn ấy là từ trận đánh ở Đồi Cháy (huyện Hải Lăng, Quảng Trị) vào tháng 9-1972. Khi đó anh Trọng là tiểu đội trưởng, được giao chỉ huy mũi thọc sâu của đơn vị. Đang cùng tiểu đội xung phong thì một quả M79 nổ chát chúa ngay bên cạnh. Nhiều mảnh đạn găm vào mũi, tay và lưng làm Trọng ngất đi. Đồng đội đưa vội giấu anh vào một ngách của giao thông hào gần đó. Nửa đêm tỉnh dậy, Trọng bò ra ngoài tìm nước uống. Toàn thân đau ê ẩm, máu từ các vết thương vẫn ri rỉ chảy. Lết đến chân điểm cao, anh nghe có bước chân và tiếng gọi: “Trọng ơi, Trọng ơi!”. Thì ra, sau trận đánh, trung đội trưởng La quay lại nơi giấu Trọng nhưng không thấy nên đã dẫn quân đi tìm. Trọng được vào khu hậu phẫu của đơn vị để dưỡng thương. Những tưởng sau lần phẫu thuật đấy, các mảnh đạn đã được lấy hết ra, ai dè gần 40 năm sau, trong lần vào viện để chữa dạ dày, khi chiếu chụp mọi người phát hiện lưng người cựu binh vẫn còn mảnh đạn. Lúc cắt ruột mảnh đạn vẫn nằm đó. “Trái gió trở trời vẫn đau lắm nhưng 40 năm rồi nó đã nằm đấy thì tôi cũng chẳng động vào nữa. Chắc là mảnh đạn này sẽ theo tôi sang “thế giới bên kia” – Nguyễn Văn Trọng cười khà khà.
Nghe anh Trọng thuật lại câu chuyện này, anh Thuận như sực nhớ ra điều gì. Kéo áo ra, lộ một vết sẹo dài trên vai trái, anh kể: “Mảnh đạn chỗ này cũng nằm đây mấy chục năm đấy. Trước tôi chỉ gánh được vai phải nhưng không nghĩ là bên trái vẫn còn mảnh đạn. Cách đây mấy năm khi gánh lúa, mỏi quá, tôi đánh liều đổi sang vai trái, đi được một đoạn thì chợt nhói một cái, đau chết điếng. Một mảnh đạn trồi ra. “Anh chàng” này không biết ở trận nào, giờ tôi vẫn giữ làm kỷ niệm”.
 |
Sau 40 năm, mảnh đạn vẫn trong người, sức khỏe suy kiệt, nhưng hằng ngày cựu chiến binh Nguyễn Văn Trọng phải cắt tóc kiếm sống. Ảnh: Vĩnh Thăng |
Những nỗi niềm sau 40 năm
40 năm đã trôi qua từ sau những trận đánh trong Chiến dịch Quảng Trị, anh Trọng, anh Thuận về với đời thường và vật vã trong cuộc mưu sinh. Mối lo cơm áo gạo tiền cũng không hề dễ hơn những trận sinh tử của thời binh lửa. Năm 1985, anh Thuận ra quân với quân hàm đại úy và một tấm thẻ chứng nhận bệnh binh, xác nhận mất 61% sức khỏe. Ngoài chế độ bệnh binh hạng 2 (hiện nay được 1,4 triệu đồng/tháng), anh không có chế độ nào khác. Cách đây hai năm, có một người phụ nữ đến tận nhà anh, khi xem các giấy tờ và nghe chuyện của anh, chị ta khẳng định, anh hoàn toàn đủ tiêu chuẩn để được hưởng chế độ chất độc da cam.
Chị ta bảo đảm sẽ lo “trọn gói” chỉ cần anh chi 20 triệu, nếu không có tiền thì cho chị ta hưởng 6 tháng đầu hoặc bán hồ sơ. Anh nóng bừng mặt, bảo: “Xương máu của tôi làm sao có thể mua bán được”. Câu chuyện ấy, mỗi lần nghĩ lại, anh vẫn thấy buồn. Buồn không phải vì không được hưởng chế độ mà buồn vì như bị xúc phạm…
Có một nỗi buồn khác mà như anh Thuận tâm sự là “khó nói”. Số là, do thành tích xuất sắc trong các trận đánh tại Quảng Trị, anh được Chủ tịch nước tặng Huân chương Chiến công hạng ba. Sau giải phóng, tấm bằng này được gửi về Bắc Ninh nhưng khi được gọi lên nhận, anh sững người khi tên và quê của anh trong đó bị viết nhầm. Nguyễn Văn Thuận thì lại thành Nguyễn Văn Thuật, quê Đọ Xá, Bắc Ninh bị viết chệch thành Đa Xá, Bắc Ninh. Đối chiếu với các lý lịch, cơ quan chức năng khẳng định, huân chương này chính là của anh. Anh mang về nhà và… lặng lẽ cất vào tủ.
Trường hợp của cựu chiến binh Nguyễn Văn Trọng so với anh Thuận còn “hoàn cảnh” hơn. Sau khi ra quân, anh về công tác ở địa phương, đến năm 1986, trong đợt giảm biên chế, anh về theo chế độ 176. Ngày ngày, chồng đi khuân vác, phu hồ, vợ thì mò cua bắt ốc, cấy thuê để nuôi 4 con ăn học. Cái nghèo cứ đeo đẳng mãi. Túng quá, anh phải bán cả mảnh đất ông cha để lại, trang trải cuộc sống gia đình. Chị Trần Thị Huyên, vợ anh Trọng ngậm ngùi: “Mấy năm gần đây, ông ấy ốm đau liên miên. Năm ngoái phải cắt ruột, khoét dạ dày, lại còn bị vôi đầu tụy nữa. Trước đây khi phát hiện ra mảnh đạn ở lưng, bác sĩ cũng khuyên nên mổ để lấy ra nhưng nghèo quá chẳng có tiền để mổ. Bây giờ, hai vợ chồng ở nhà, tôi nhận trông trẻ, ông ấy cắt tóc kiếm mấy đồng để sống thôi”…
Rời Bắc Ninh, trên chuyến xe trở về Hà Nội, những đồng đội của anh Trọng, anh Thuận nặng trĩu suy tư. Còn tôi, một kẻ hậu sinh, lại cứ vẩn vơ nghĩ về mảnh đạn và vết thương trong người những cựu chiến binh Quảng Trị. Vâng, 40 năm, những mảnh đạn thời gian, những “vết thương” thời bình dường như vẫn chưa thôi nhức nhối…
Trần Hoàng Tiến