QĐND - Thấm thoắt, thế mà đã 31 năm trôi qua!
Thấm thoắt, thế mà đã không còn người anh-người bạn ấy nữa!
31 năm trước, đúng 31 năm, kỷ niệm Ngày Giải phóng Thủ đô, ngày 10-10-1984, buổi sáng, Thiếu tướng, Tổng biên tập Trần Công Mân triệu tôi đến phòng làm việc của ông tại tầng 3, số 7 Phan Đình Phùng. Ông nói, giản dị nhưng hơi... nghiêm trọng, đại ý là: 13 giờ ngày mai, 11-10, tại Phnôm Pênh, Bộ Chỉ huy Quân Tình nguyện Việt Nam họp phổ biến, triển khai kế hoạch tác chiến mùa khô 1984-1985, tôi phải có mặt trong cuộc họp đó, với tư cách là “Đặc phái viên” của Tổng biên tập Báo Quân đội nhân dân (QĐND).
Vừa bực, vừa lo vì không biết làm cách nào để 13 giờ hôm sau có mặt ở Phnôm Pênh được, tôi bảo: “Tôi không có máy bay riêng!”. Tổng biên tập nghiêm mặt đáp trả (câu này thì tôi nhớ nguyên văn): “Giao nhiệm vụ là việc của tôi, còn làm thế nào để có mặt ở đó đúng giờ là việc của anh!”. Rồi ông ký vào một tờ “Công lệnh” đưa cho tôi. Tôi cầm tờ “Công lệnh”, quả nhiên thấy chữ ký của Tổng biên tập, dưới mấy dòng “... Đặc phái viên...” thật!
 |
Đồng chí Đoàn Ngọc Cận.
|
 |
Đồng chí Đoàn Ngọc Cận khi còn trẻ. Ảnh do gia đình cung cấp
|
Về Phòng Văn hóa, tôi đưa cho Trưởng phòng Phạm Phú Bằng xem tờ giấy rồi hỏi mọi người xem phải làm thế nào. Có ai đó bảo, thử sang Đoàn bay 919 bên Gia Lâm xem sao!
Tôi báo tin cho vợ, chuẩn bị quân tư trang, sang Xưởng phim Quân đội xin được một đoạn phim Oóc-vô đen trắng, rồi cuốn vào 10 cái vỏ lô phim máy ảnh đã dùng hết; ra phố-chợ cổ mua một đôi dép cao su, một nắm quai dép dự phòng và một chiếc “rút dép” làm từ đai hòm thùng hàng Liên Xô và... dong thẳng sang Gia Lâm!
Đọc “Công lệnh”, các đồng chí ở Đoàn Không quân Vận tải 919 bảo, chiều hôm ấy có một chuyến AN-26 đi Tân Sơn Nhất, tôi có thể đi cùng. Tôi nhờ được điện thoại, gọi trước cho anh Vũ Linh, lúc ấy là Trưởng ban đại diện Báo QĐND tại TP Hồ Chí Minh, hẹn anh ấy đón. Quả nhiên, khi đến Tân Sơn Nhất, tôi đã gặp ngay anh Linh và vài anh em khác ở Ban đại diện đang chờ. Chúng tôi lại cùng vào ngay Sở chỉ huy sân bay (quân sự) này. Vào đến Tân Sơn Nhất, tôi lại gặp may! Sáng hôm sau, tức là sáng 11-10-1984, có một chuyến AN-26 đi Pô-chen-tông và Tân Sơn Nhất sẽ cho tôi “quá giang”.
Kỳ diệu! Gần trưa 11-10-1984, tôi đã có mặt ở Bộ chỉ huy Quân Tình nguyện Việt Nam tại Phnôm Pênh. Ở đó, tôi được bố trí ở với bộ phận Tuyên huấn, thuộc Cơ quan Chính trị của Bộ tư lệnh Mặt trận 479.
Người đầu tiên tiếp tôi là Trung tá Đoàn Ngọc Cận. Làm thủ tục xong, anh Cận giới thiệu tôi với các anh Nguyễn Dĩnh, Trịnh Phú Viên, anh Vẻ, anh Thắng ở cơ quan Tuyên huấn mà anh Cận là Phó ban (anh Nguyễn Dĩnh lúc ấy là phóng viên quay phim, anh Viên là phóng viên ảnh, đều do Cục Tuyên huấn điều sang). Anh đưa tôi đi ăn trưa cùng họ rồi đợi đúng 13 giờ thì đưa tôi lên dự cuộc họp “phổ biến-triển khai” kế hoạch tác chiến do Bộ tư lệnh Mặt trận 479 chủ trì. Anh Cận giới thiệu tôi với Thiếu tướng Lê Hai, Thiếu tướng Lê Khả Phiêu-đồng Phó tư lệnh Chính trị Mặt trận (anh Lê Khả Phiêu khi ấy vừa được bổ nhiệm) và các anh ở Bộ tư lệnh Mặt trận 479.
Tháng đầu, chắc sợ tôi gặp nguy hiểm, anh Đoàn Ngọc Cận phân công tôi làm “Phó đoàn công tác” ở Phnôm Pênh. “Đoàn” ấy gồm các “Chiến sĩ thi đua” của cả Quân Tình nguyện Việt Nam lẫn Quân Cách mạng Cam-pu-chia, do anh Thắng ở cơ quan Tuyên huấn mặt trận làm trưởng đoàn, có “chương trình-nhiệm vụ” là, đi nói chuyện chiến đấu-công tác ở các cơ quan Quân-Dân-Chính-Đảng Phnôm Pênh. Cũng có cái hay! Trong cái “tháng đầu” ấy, tôi lấy được khá nhiều tư liệu từ những “Chiến sĩ thi đua” trong đoàn, để viết cái ký “Cam-pu-chia - Gương mặt Quân Tình nguyện” đăng phơi-ơ-tông ở chân trang Báo QĐND hằng ngày.
Khi đoàn lên nói chuyện tại một đơn vị ở tỉnh Xiêm Riệp-Bát Đom Boong (khi ấy hai tỉnh này vừa được sáp nhập làm một-bây giờ lại tách ra) gần mặt trận, tôi lặng lẽ cởi lễ phục, gói lại, nhờ đem về Phnôm Pênh, gửi trả anh Cận, rồi xỏ dép lốp, khoác ba lô đi với Sư đoàn Bộ binh 5 của Sư trưởng Tư Bê, với Trung đoàn chủ công của Trung tá, Anh hùng LLVT nhân dân Phạm Văn Đỡ, đánh Xrây-viêng, Cần Đôn... và to nhất là đánh Am-pin (Cây Me)-Bộ Tổng tham mưu kiêm căn cứ hậu cần của lực lượng Xon Xan, giáp biên giới Thái Lan. Từ đó, tôi mới có “Cam-pu-chia - Thông báo tháng Chạp”. Rồi theo đề nghị của tôi, anh Cận gửi tôi xuống phía Nam Cam-pu-chia, đi cùng bộ đội ở Cam Pốt, tiễu “phỉ” ở núi Mây, ở triền Đăng-rếch (Vai Bò); về Tà Keo... và, “Nơi ấy là Cam Pốt” ra đời. Cả hai cái “ký” này cũng đều được đăng phơi-ơ-tông ở Báo QĐND, cùng một ít bài báo lẻ khác.
Hầu hết các bài ký và bài báo lẻ của mình, tôi đều đọc ở Phnôm Pênh cho anh Đoàn Ngọc Cận nghe, trước khi về TP Hồ Chí Minh, thuê đánh máy, gửi tàu bay ra Bắc (cứ thuê đánh máy hết 50 đồng một số phơi-ơ-tông, chừng 2.000-2.500 chữ thì sau này, Báo QĐND trả nhuận bút là 25 đồng).
Anh Cận quý tôi, tán thưởng và góp ý cho tôi rất tận tình. Anh Cận giỏi tiếng Pháp, mà Cam-pu-chia cũ lại ở xứ “Đông Dương thuộc Pháp”, nên anh Cận hiểu nhiều “tích” đất này.
Ngày 22-12 năm ấy, nhân 40 năm Ngày thành lập QĐND Việt Nam, Phnôm Pênh làm lễ lớn. Các bạn Cam-pu-chia “đặt” anh Cận hai bài-một bài xã luận và một bài viết về Quân đội ta-để dịch ra tiếng Khơ-me, đăng báo bạn. Anh Cận nhận viết bài xã luận và nhờ tôi viết bài về Quân đội ta. Anh Cận cười: “Có thù lao đấy! Hai tút A Lào, mỗi thằng một tút!”. Cả hai anh em tôi đều nghiện thuốc, được “nguyên đai” hai tút A Lào thì còn gì bằng! Thế là trong đêm, hai anh em ngồi viết, hút thuốc, đọc “chéo” cho nhau nghe rồi sáng hôm sau gửi bài.
Gần Tết Âm lịch, khi chiến dịch đã vãn, Thiếu tướng Nguyễn Huy Chương, Phó tư lệnh Chính trị Mặt trận 579 (giáp Tây Nguyên ta)-đã về Phnôm Pênh để báo cáo sơ kết phía mặt trận này, tôi bị kiết lỵ nặng đến nỗi xơ vữa toàn bộ tầng sinh môn, cứ ngồi hay đứng lên là trực tràng tuột ra khỏi người! Anh Cận báo cáo Bộ tư lệnh, cho tôi bay thẳng bằng máy bay dân dụng từ Pô-chen-tông ra Hà Nội để chữa bệnh. Trước khi đi, anh Cận làm giấy, có dấu đỏ hẳn hoi, cho tôi cầm về Hà Nội, đưa tướng Trần Công Mân. Đó là giấy tờ đề nghị khen thưởng tôi khi tham gia mùa khô đỏ lửa ấy.
Về Hà Nội, tôi xin lên Viện Quân y 110 chữa bệnh (vì vợ con tôi lúc ấy đang ở thị xã Bắc Ninh). Sau này, không thấy Tổng biên tập Trần Công Mân nói gì đến việc khen thưởng. Tôi cũng không hỏi. Tôi và chắc là cả ông, đều nghĩ rằng, việc hoàn thành nhiệm vụ của một phóng viên chiến trường mọi thời, cũng chỉ là việc bình thường.
Mấy năm sau, khi anh Đoàn Ngọc Cận về nước rồi nghỉ hưu, thỉnh thoảng hai anh em tôi lại ngồi ôn chuyện cũ, luận thế thời. Và, tôi vẫn luôn được nhận từ anh, lòng yêu quý cùng những ý kiến nhỏ nhẹ, sâu sắc, hữu ích. Khi ấy, tôi cũng hiểu biết thêm về anh. Anh sinh năm 1928, ở xã Nam Hoa, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Năm 1945, mới 19 tuổi, anh Cận đã được kết nạp vào Đảng. Sau thời gian hoạt động tích cực với vai trò cán bộ Đoàn ở các tỉnh Nam Định, Hải Dương, năm 1950 anh được điều động vào quân đội. Từ năm 1955 đến 1958, anh trở thành cán bộ biên tập của Báo QĐND. Rồi sau đó anh đi học. Năm 1959-1965, anh trở về và được bổ nhiệm Phó phòng, rồi Trưởng phòng Phòng Biên tập Chính trị của báo. Thời gian công tác ở Báo QĐND tuy không dài, nhưng anh cũng đã để lại ấn tượng tốt đối với nhiều cán bộ, phóng viên lúc bấy giờ. Thế nên cho đến bây giờ, khi nhắc đến Đoàn Ngọc Cận thì cả Phạm Phú Bằng, Hồng Phương (là các cựu chiến binh của Báo QĐND) đều khen nắc nỏm...
Vĩnh biệt anh, cho tôi nhớ anh bằng mấy dòng này! Thơ tôi vừa viết: “... Trăm năm một cõi đi về/ Nhìn lâu cho mắt đỏ hoe làm gì?...”. Nhưng nhớ thời “Gót rỗ chân mòn” ấy, nhớ người anh-người bạn ấy, không “đỏ hoe” mà được ư? Thơ này không đọc trước anh nghe được! Giờ anh nghe nhé!
Hà Nội, đêm mồng 2 tháng 10 năm 2015
ĐỖ TRUNG LAI