QĐND - “Vùng lên anh em ơi! Vững lòng tranh đấu, phá tan xiềng xích…”. Lời hát vang lên sục sôi như tái hiện lại khí thế đấu tranh trong lao tù năm xưa, làm nhiều đại biểu tham dự cuộc gặp mặt các chiến sĩ bị địch bắt tù đày tỉnh Hưng Yên xúc động rơi nước mắt. Biểu diễn bài hát nói trên là Tổng thư ký Hội Các chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày Việt Nam Nguyễn Dương Kế. Ông đã từng bị kẻ thù kết án tử hình và đã vượt ngục thành công. Nay, tuy đã sắp bước vào cái tuổi “xưa nay hiếm”, nhưng ông vẫn cần mẫn miệt mài làm “pho sử sống” truyền lửa nhiệt tình cách mạng cho thế hệ trẻ…
Kết thúc buổi gặp mặt các chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày tỉnh Hưng Yên, tôi được trò chuyện với người tử tù Nguyễn Dương Kế, con gái nuôi và một số đồng đội cũ của ông. Trước mắt tôi như hiện ra hình ảnh người chiến sĩ cách mạng kiên trung nhưng lại phảng phất huyền thoại của một chiến binh có khả năng siêu phàm…
 |
Ông Nguyễn Dương Kế hát bài “Vùng lên anh em ơi”. |
Năm 1966, chàng thanh niên trẻ Nguyễn Dương Kế rời quê hương (xã Thành Lợi, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) lên đường nhập ngũ. Sau 6 tháng luyện tập ở Thạch Thành (Thanh Hóa), Nguyễn Dương Kế khoác ba lô vào miền Nam chiến đấu. Trong một chuyến tiền trạm đưa đơn vị đi lấy lương thực ở Phước Hòa (Phú Giáo, Bình Dương) do ở lại chiến đấu để cản chân địch, ông đã bị giặc bắt sống với nhiều vết thương trên mình vì chống trả với địch. Sau khi đưa ông vào Bệnh viện Long Bình để chữa trị vết thương, tháng 2-1969 bọn chúng đưa ông về trại giam Biên Hòa rồi lưu đày ra tận đảo Phú Quốc.
Trong lao tù Phú Quốc, ông và đồng đội đã sáng tác bài hát “Vùng lên anh em ơi”. Tác phẩm là một loại vũ khí sắc bén trong nhà tù lúc đó chống lại kẻ thù.
Đầu năm 1971, chi bộ khu Đ5 của nhà tù Phú Quốc tổ chức đào 3 đường hầm vượt ngục để đưa anh em trở về đất liền tiếp tục chiến đấu. Đến tháng 7-1971, hầm ngắn nhất đào đã gần xong thì bị lộ do có người viết giấy báo cho bọn quân cảnh. Nhìn nét chữ, anh em trong trại phát hiện ra người viết giấy báo này là tên Doãn Văn Biên. Hắn đã trà trộn vào trong trại để làm chỉ điểm. Đảng bộ trại Đ5 họp khẩn cấp và nhận định Biên là đối tượng nguy hiểm, cần phải loại trừ nếu không sẽ có nhiều hậu họa xảy ra. Đảng bộ đi đến quyết định phải thủ tiêu Biên để giữ an toàn cho anh em vượt ngục. Thủ tiêu Biên không khó, nhưng khó nhất là phải có người ra nhận tội để giữ bí mật cho anh em. Ông Nguyễn Dương Kế đã xung phong nhận “tội” này.
Chiều hôm ấy, đến giờ điểm danh, tên trung sĩ quân cảnh thấy thiếu một người ở phòng số 9 và sau đó bọn chúng tìm thấy xác tên Biên trong phòng số 6. Lập tức, cả tiểu đoàn quân cảnh số 8 bao vây toàn phân khu để tập hợp tù nhân lại và truy tìm cho ra “thủ phạm”. Bọn địch thật bất ngờ khi thấy tù binh Nguyễn Vương Thành (tên trong hồ sơ của ông Nguyễn Dương Kế) mang số hiệu 6686 đứng lên nhận tội.
 |
Ông Nguyễn Dương Kế - người tử tù năm xưa và cô con gái nuôi (con đẻ của đồng đội cũ trong tù) hôm nay. |
Ông Kế nhớ lại giây phút đó: “Dù đã bị địch bắt đem vào nhà tù nhưng tôi thấy đây cũng là một mặt trận, mình còn sức thì còn phải chiến đấu với kẻ thù. Biết là tay không đối chọi với súng đạn rất nguy hiểm nên tôi đã chuẩn bị sẵn tinh thần. Ngoài tôi ra, sau đó có anh Trương Văn Long ở chung phân khu cũng đứng ra nhận “tội”. Thế là từ đó trở đi, bọn chúng đem hai người vào phòng biệt giam và tìm đủ cách tra tấn. Hình thức phổ biến nhất là dùng gậy, roi cá đuối đánh vào người, đổ nước xà bông vào miệng, lấy tàn thuốc gí vào người. Vừa đánh đập, bọn chúng vừa khảo tra: “Ai giết tên Biên? Tại sao lại giết nó? Ai là bí thư chi bộ? Ai tổ chức đào hầm?”...
Ông Kế một mực khai: “Vì nó hăm dọa giết tôi thì tôi phải giết nó trước, đây là chuyện tư thù cá nhân chứ không có nguyên nhân nào hết”. Sức khỏe ông từ đó suy sụp hẳn, miệng sưng vù, người lở loét hôi thối…
Cuối năm 1971, ông Kế bị chúng đưa về Cần Thơ và mang ra xử tại tòa án binh, bị tuyên án tử hình. Trong thời gian chờ đợi thi hành án tử hình, ông Kế bị chúng đưa vào trại giam Cần Thơ.
“Người chiến sĩ phải hy sinh trên chiến trường chứ không thể bị chết trên pháp trường”- Ông Kế nghĩ vậy và quyết tâm vượt ngục. Ông nhớ lại: “Chuyến vượt ngục cực kỳ mạo hiểm. Bốn người tù chúng tôi bấm tay nhau quyết tâm về với đồng đội, dù chỉ một người trở về cũng thành công. Lợi dụng đêm tối, chúng tôi dùng sắt khoét nền nhà giam, sau đó moi đất chui dưới hàng rào bùng nhùng, qua được lớp rào bùng nhùng, móc đất trát kín cả người và bò ra mỗi người một hướng. Tôi ra tới bờ sông Bình Thủy thì nằm lại, đợi đến tối mới lần ra sông Hậu. Rất may là gặp được hai tử tù trốn cùng là anh Long và anh Pha”. (Sau này ông Kế mới biết anh Đào, người tù thứ tư vượt ngục đã bị địch bắt trở lại). Ba tử tù lần theo hướng có tiếng súng để tìm đồng đội, hai đêm sau mới tới được nơi có tiếng súng, đó là xã Mỹ Thuận A, huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long.
“Tôi và hai đồng đội cứ theo dấu chân du kích đi theo đường mòn bí mật, đi mãi cuối cùng khi ngẩng mặt lên thì thấy một anh du kích đang ngồi ăn cơm! Sau khi nghe anh em trình bày sự việc, anh em du kích hết sức bất ngờ. Họ đưa chúng tôi về Tỉnh đội Vĩnh Long. Sau bao năm tháng ngục tù, gặp lại đồng đội, đồng chí, ai cũng rơi nước mắt vì sung sướng. Vậy mà chúng tôi lại buồn vì bị nghi ngờ là gián điệp địch cài vào vùng giải phóng”-ông Kế hồi tưởng.
Mãi đến khi việc xác minh hoàn tất, Tỉnh đội Vĩnh Long mới đưa ông Kế và hai đồng đội của ông vào đơn vị chiến đấu cho đến ngày toàn thắng.
Sau ngày thống nhất đất nước, ông Nguyễn Dương Kế xin chuyển ngành. Ông làm việc cho Báo Lao động, Báo Cao su đến năm 2008 mới nghỉ hưu. Nhưng ông về hưu chứ không nghỉ làm việc. Ông được những người sống trong tù thời kháng chiến bầu làm Tổng thư ký Hội Các chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày Việt Nam. Nói theo ngôn ngữ của ông là “thành "sợi dây” nối quá khứ với hiện tại, nối tình cảm các cựu tù đang còn sống trên mọi miền đất nước lại với nhau”.
Nghe tin anh em cựu tù ốm đau, qua đời, dù bận đến mấy, ông cũng cố gắng thu xếp công việc đến thăm, đến viếng. Ban liên lạc Các chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày của các tỉnh trong toàn quốc họp, ông bỏ tiền lương hưu dành dụm được mua vé tàu xe đến dự và góp phần giải quyết các chế độ chính sách cho anh, chị em. Ông là nhân chứng sống tại nhà lao Phú Quốc. Qua câu chuyện của ông, rất nhiều hiện vật, di tích tại nhà tù Phú Quốc đã được khôi phục.
Không chỉ thăm các cựu tù cũ, ông Kế còn dành thời gian thăm cả những cai ngục năm xưa để nhằm xóa bỏ những thù hận cũ và bổ sung thêm chi tiết vào các tư liệu lịch sử. Ông nhớ mãi cái hôm ra đảo Phú Quốc, ông đã tìm thăm lại thượng sĩ nhất lực lượng quân cảnh của chế độ nguỵ quyền Sài Gòn có tên là Trần Văn Nhu, Trưởng giám thị khu 2 của trại tù Phú Quốc, một trong những tên cai ngục tàn bạo khét tiếng thuở trước.
Gặp lại người tử tù cũ, ông Nhu sững sờ, nhưng nhờ sự ân cần của ông Kế, ông Nhu đã trấn tĩnh trở lại và cảm động khi nghe ông Kế nói: “Tôi và mấy đứa em từ Sài Gòn về đây thăm anh. Gửi anh ít sữa, ít trà để uống. Chiến tranh đã đi qua, tụi mình không nên câu nệ chuyện quá khứ làm gì. Bây giờ anh sống ở địa phương, nên làm tốt các công tác tại địa phương, bữa nào anh lên TP Hồ Chí Minh, nhớ điện cho tôi, tôi dẫn anh đến thăm nhà, đi một vòng thăm thành phố”.
Ngoài công việc ở Hội Các chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày Việt Nam, ông còn là cộng tác viên tuyên truyền thường xuyên của các trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông ở TP Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước. Ông đi nói chuyện truyền thống, nói chuyện thời sự thường xuyên cho học sinh các trường và không hề đòi hỏi tiền thù lao, chính sách đãi ngộ.
Với giọng miền Bắc trầm ấm và vốn sống thực tế trong lao tù của kẻ thù, ông đã trở thành “pho sử sống”, truyền lửa nhiệt tình cách mạng cho các thế hệ học sinh. Qua câu chuyện của ông, những chi tiết, thời khắc khô khan trong môn Lịch sử trở nên sống động. Nhiều cô, cậu học sinh nghe ông kể về cuộc sống trong nhà tù Phú Quốc, nhà tù Cần Thơ đã rơi nước mắt và sau đó ngoan hơn. Ông nói với tôi rằng, cuộc đời của ông là những cuộc chiến đấu. Đến bây giờ, khi đã được cấp trên cho nghỉ hưu, đã sắp vào cái tuổi “xưa nay hiếm”, nhưng ông vẫn tiếp tục chiến đấu với những thói hư, tật xấu trong xã hội, chiến đấu để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, chiến đấu để các thế hệ trẻ sống xứng đáng với truyền thống cha anh.
Bài và ảnh: Đỗ Phú Thọ