QĐND Online - Tôi có ấn tượng đặc biệt với hình tượng bà mẹ trong vở tuồng San Hậu. Đó là bà mẹ dành hết tình thương cho đứa con mình sinh ra, nhưng kẻ thù đã không lợi dụng được điều đó, chúng không thể ép người mẹ khuyên con làm điều phi nghĩa.
Bà mẹ Nguyễn Thị Ly, người ấp Phú Thuận, xã Phú Hoà Đông, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh cũng là một người như thế. Đôi lúc, tôi nghĩ bà còn hơn cả những hình tượng người mẹ được xây dựng trong các tác phẩm nghệ thuật kinh điển. Bà được Đảng, Nhà nước tuyên dương “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” vì có tới bốn người con trai là liệt sĩ, một là thương binh.
Chuyện xảy ra trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ. Thời ấy, tôi là Thiếu tá, chỉ huy Cụm Tình báo Quân sự hoạt động nội thành Sài Gòn. Phụ trách Đội Giao thông võ trang của Cụm tại xã Phú Hoà Đông là đồng chí Huỳnh Văn Điển tức Tư Thành, cán bộ trung đội bậc phó, con của ông Huỳnh Văn Thú và bà Nguyễn Thị Ly.
 |
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn Thị Rành. Ảnh minh họa |
Trong một chuyến đột nhập ấp chiến lược Phú Hoà Đông để mang tài liệu, tổ của đồng chí đã hoàn thành nhiệm vụ. Riêng Thành bị giặc bắn bị thương vào chân và chúng bắt anh đem về bốt Phú Hoà Đông. Chúng cho điều trị vết thương, giở trò mua chuộc để anh khai báo cơ sở của cách mạng trong ấp chiến lược, khai ra những người giao thông bí mật của Cụm Tình báo. Không lay chuyển được anh, bọn giặc quay sang dùng mọi cực hình tra tấn dã man như lấy dùi sắt nung đỏ xoáy vào vết thương chưa lành hẳn, dí điện vào các chỗ hiểm trong thân thể cho người bị bắn tung lên rồi rơi xuống như một cây thịt… cũng không moi được anh một nửa lời khai. Người chiến sĩ tình báo kiên cường ấy vẫn cắn răng chịu đựng. Sau nhiều ngày điều tra khai thác không hiệu quả, tên chỉ huy bốt Phú Hoà Đông báo cáo về quận. Viên quận trưởng có cố vấn Mỹ góp ý nghĩ ra một kế độc là bắt bà mẹ anh Thành lên bốt để thuyết phục con “bỏ hàng ngũ Việt Cộng, quay về với chính nghĩa quốc gia”. Bọn giặc hí hửng, chắc mẩm phen này sẽ đánh gục được người chiến sĩ cách mạng.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn được giải phóng, đến năm 1981, được trên cho nghỉ hưu, tôi đạp xe từ Thành phố Hồ Chí Minh về thăm lại chiến trường xưa. Tôi đến nhà Tư Thành gặp lại bà Nguyễn Thị Ly mẹ của anh để được nghe mẹ kể lại những ngày gian nan ấy. Năm ấy, Thành đảm nhận chức vụ Bí thư Đảng uỷ xã Phú Hoà Đông, còn mẹ Nguyễn Thị Ly tuy tuổi già sức yếu vẫn sống với nghề bánh tráng, một nghề phổ biến trong xã này. Bồi hồi với những ký ức đau thương, bà mẹ chậm rãi kể lại: Nghe thằng Điển (Tư Thành) bị thương rồi bị giặc bắt, tôi chết điếng trong ruột. Anh hai nó, thằng Nhã đã hy sinh hồi phong trào mới nổi dậy năm 1960. Lúc ấy thằng Nhã làm xã đội, tối đó cùng anh em du kích bám vô ấp thì bị lọt vào tổ phục kích của giặc. Thi thể nó, giặc đem bêu giữa chợ, không cho gia đình mang về. Tiếp đến đứa em thứ năm là thằng Tính, thoát ly lên trên, làm việc ở Ban Quân giới “Y tư” (tên gọi của Quân khu Sài Gòn – Gia Định lúc bấy giờ). Nó lấy vợ trên ấy, cũng là một chiến sĩ của Ban Hậu cần. Năm 1969, nó gửi vợ nó về nhà ở với tôi, vì sợ nó gần ngày sinh mà trên chiến khu thì bom, pháo dữ lắm, định sinh đẻ xong gửi con lại cho bà nội rồi lên. Chú nghĩ coi! Vợ nó về mùng 2 Tết thì mùng 7 có tin nó bị đại bác Mỹ bắn chết tại Ba Sòng (Bắc Củ Chi). Đến năm 1970, vừa nhận được giấy báo tử của thằng Tính, thì bà con anh em về báo thằng Điển bị giặc trên đồn bắt. Cái đêm đó, tôi buồn đứt ruột, cứ ngồi chong đèn hột vịt mà ăn trầu hết miếng này tới miếng khác, cái giấy báo tử của cách mạng chưa kịp giấu, cái trát đòi của quận trưởng Phú Hoà thì để trên cái ô trầu đó. Còn ổng nhà tui thì nằm ngủ trên tấm phản này đây. Nửa đêm, ổng trở mình thức giấc, cằn nhằn:
 |
Phụ nữ miền Nam đấu tranh chính trị |
- Sao bà chưa đi ngủ đi, ngồi đó hoài vậy?
- Để tôi còn liệu coi sáng mai lên bốt gặp con thì nói với nó cái gì chớ…
Ổng lầu bầu trong miệng:
- Còn nói cái gì nữa. Bà nói với nó, nếu chịu khai thì đi theo giặc luôn đi. Bà con chòm xóm người ta sẽ chê cười vào mặt mình.
Tôi cũng mừng vì thấy ông một lòng một dạ với tôi, phải nói sao cho thằng Điển đừng khai báo. Từ ngày nó bị bắt, cán bộ xã, anh em du kích đến thăm, anh em trong đơn vị về thăm, bà con chòm xóm đến an ủi vợ chồng tôi. Đó là vì nó không khai, anh em bà con nể trọng nó và thương mình. Nếu nó khai bắt tùm lum thì không phải như vậy đâu. Người ta sẽ khinh ghét cả gia đình mà xa lánh. Nghĩ vậy nên tôi xác định chỉ còn tìm cách nói sao cho khéo, cho nó hiểu ý mà mình đỡ bị đòn.
Thú thật với chú Tư, tôi thức đến sáng luôn, không phải chỉ để chọn lời lẽ đâu, mà còn vì nhớ thương con quá! Nhớ lúc mới sinh, nó rúc đầu vô bú, nước da nó trắng hồng, ngón tay ngón chân nhỏ xíu đều đặn, rồi lúc nó ngủ, mụ bà dạy nó cười, đến lúc tôi nhai mớm cho nó, cái thằng hám ăn cứ nhìn lom lom vào miệng mình, nhai không kịp cho nó nuốt… Thế mà giờ đây cũng thịt xương ấy, cũng đứa con mũm mĩm dễ thương ấy, bọn giặc như bầy sói lang tra tấn, đánh đập, dày xéo như một khúc củi…
Kể đến đó, bà mẹ nghẹn lời không nói được nữa, dòng nước mắt lăn dài trên gò má nhăn nheo. Tôi quay đi vì quá xúc động. Phải! Trên thế gian này, có bà mẹ nào không đau xót khi đứa con thân yêu của mình đang bị tù đày tra tấn, đánh đập tàn nhẫn chết đi sống lại?
Tiếng chim bìm bịp từ ngoài sông cái vọng vô đều đều. Bà mẹ nhớ ra và nói tiếp: Chừng nghe chim bìm bịp kêu, tôi giật mình vì trời sắp sáng rồi. Tôi lay chồng dậy để ăn ba hột cơm nguội rồi còn chuẩn bị ra đồng, còn mình thì rửa mặt cho tươi tỉnh một chút để đi lên bốt. Vác cái cuốc đi ngang lu nước, ổng còn nói “Coi chừng rồi không dám nhìn mặt ai đó. Bà liệu mà nói với con”. Giọng nói của ổng cộc lốc, nhưng cái ý của ổng thì tôi hiểu.
Bà con được tin từ chiều hôm qua. Biết bọn giặc đòi tôi lên bốt, nhiều người ra đường động viên, an ủi. Phần đông ái ngại cho tôi vào nơi hang hùm, liệu còn trở về được toàn vẹn hay không? Ôi! quý thay tình làng nghĩa xóm!
Vừa bước vào phòng hội đồng xã, tên hương hào Bàng, tay sai đắc lực của giặc niềm nở săn đón. Hắn tự tay rót nước mời tôi và nói: Thím Ba! Không biết tụi cộng sản cho thằng Điển ăn cái bả gì mà nó dại quá, không chịu khai ra công việc nó làm. Vậy lát nữa gặp nó, thím nên khuyên bảo vài lời, đừng khư khư như vậy mà thiệt thân.
Rồi chúng đưa tôi sang phòng điều tra. Một cái giường sắt, trên ấy, một con người gần như trần truồng, đằng sau cái bàn là một thằng ác ôn đang đứng chống nạnh, vẻ mặt hầm hầm. Trên tường treo lủng lẳng dây điện, kềm, roi…
Vừa thấy tôi, thằng Điển, mặt mày sưng húp, ráng ngồi dậy, nhưng không nổi. Tôi lật đật chạy đến đỡ con, lật tấm vải đắp ra, thì trời ơi, trên thân thể thằng nhỏ, các lằn roi đan nhau bầm tím. Chỉ có đôi mắt thì như cười với tôi. Vết thương nơi chân trái sưng tấy lên. Bọn dã man đã không chăm sóc còn lấy dùi sắt xoáy vào thì còn gì là da thịt con người. Nhìn con mà lòng nghẹn lại. Nói thiệt với chú Tư, lúc ấy tôi ước gì mình thành con chim đại bàng để cặp đứa con bay ra khỏi nơi địa ngục trần gian. Tên quận trưởng và hương hào Bàng bước vào. Thằng ác ôn dập chân chào cấp trên. Hương hào Bàng giục tôi: “Nói đi thím Ba, chỉ cần thằng Điển khai ra một người làm việc với nó trong ấp chiến lược này, một người thôi, chúng tôi sẽ băng bó tử tế cho nó về ngay với thím”…
Bà mẹ kể đến đó thì có tiếng máy xe hon đa. Thành làm việc trên văn phòng xã vừa về. Thấy tôi, anh mừng quá, dựng vội chiếc xe dưới tán cây mít rồi bước nhanh vào ôm chầm lấy tôi, reo lên:
- Anh Tư! Nghe nói anh cùng đơn vị đang ở biên giới Bình Long đánh nhau với bọn Pôn Pốt.
- Ờ, đúng vậy. Nhưng vừa rồi, mình bị thương khá nặng, sau khi nằm quân y điều trị, trên cho về hưu.
- Có vậy anh mới trở lại vùng này thăm bà con đó phải không?
Vẫn giọng cười cởi mở, nhưng bước chân của Thành khập khiễng. Anh không còn được nhanh nhẹn như hồi còn là chiến sĩ trong đơn vị. Thấy tôi nhìn anh có vẻ ái ngại, anh cười và nói: So với chân phải thì chân trái sau khi lành vết thương, gân bị rút nên ngắn đi một tấc, anh Tư à. Nhưng không sao, bây giờ đi đâu xa thì mình dùng xe gắn máy chớ có phải lội bộ cả ngày như hồi đó đâu.
Bà mẹ bưng nồi cơm lên, giở nắp vung ra, lấy đũa bếp mới. Cơm gạo mới bốc hơi thơm phức. Một phụ nữ trạc tuổi bốn mươi bưng nồi canh lên và múc ra tô. Cha! Gà nấu lá dang. Món này bà con nông thôn thường đãi khách quý đây. Người phụ nữ chào tôi và trở xuống bếp. Tôi nghe đâm cộp cộp. Đúng! Món gà nấu chua phải kèm với cối muối ớt thật đỏ mới đầy đủ hương vị. Bà mẹ nói: Vợ thằng Tính đó. Mẹ con nó làm cái nhà sát vách đây để hủ hỉ hôm sớm với tôi. Nhìn theo tay mẹ chỉ, tôi thấy một mái tranh đơn sơ, bên dưới là một lò bánh tráng đang nghi ngút khói.
Tôi nóng lòng vì câu chuyện đang bị cắt ngang. Tôi muốn biết đứng trước bọn giặc hung bạo, bà mẹ đã xử trí ra sao, bà đã nói với con như thế nào. Nghe tôi hỏi, mẹ tiếp tục kể: Chú Tư à, tôi biết thằng giặc không để cho tôi nói với con nhiều lời. Giờ phút ấy, tự nhiên tôi nhớ đến chú, nhớ đến mấy đứa cùng đi với nó. Tôi nói: Chú Tư và anh em gửi lời thăm con, nói con ráng… Cố nói cho mau mà cũng chỉ nói được bấy nhiêu. Thằng hương hào Bàng dang tay đánh một bạt tai rồi xô tôi ra cửa. Tôi ráng ngoái lại nhìn con một lần nữa, thấy nó chồm dậy nói lớn: “Má ơi! Nói với mọi người cứ yên tâm…”. Cái cửa rầm một tiếng, hết nghe gì nữa.
Thành ngưng đũa nói chậm rãi: Lời nói của má tôi bữa đó động viên tôi biết mấy. Bọn giặc tra tấn, đánh đập tôi dữ dội hơn nhưng tôi tiếp tục giữ vững. Không khai thác được gì, chúng đày tôi ra đảo cho đến ngày hai bên trao trả tù binh, tổ chức đưa tôi đi điều trị, an dưỡng.
Bà mẹ kể tiếp: Hôm ấy trở về nhà, tôi buồn hết sức, bỏ ăn, bỏ ngủ mấy ngày. Hễ nhắm mắt lại là thấy thằng con mình trần truồng trong phòng tra tấn, mình mẩy tím bầm lằn roi vọt. Nhưng rồi bà con chòm xóm đến thăm nom, an ủi cũng giải khuây. Tối tối, thỉnh thoảng chú với mấy em trong đó về thăm, cũng bớt buồn.
Tôi nhìn lên bàn thờ. Bốn cái bằng “Tổ quốc ghi công” của người anh và những đứa em sắp theo thứ tự: Huỳnh Văn Nhã, Huỳnh Văn Tính, Huỳnh Văn Gọi, Huỳnh Văn Ẩn.
Bà mẹ nói: Thằng Điển còn ở tù thì thằng Gọi, thằng Ẩn xin đi. Chú nghĩ coi, không cho sao được, tụi nó đi trả thù cho mấy anh nó, trả thù cho làng xóm bị tàn phá. Hai đứa nó vừa lớn lên, phụ làm ruộng được với ổng mà cũng xin đi cho bằng được. Ổng thì lầm lì không nói gì, khó đoán được ý ổng lắm. Còn “qua” nói lẫy: ờ, thì đi đâu thì đi hết đi!
Vậy mà hai đứa nó đi thiệt. Bổ sung vào du kích xã rồi cũng lần lượt chết hết. Mấy năm đó tình hình găng lắm, đột vào ấp chiến lược công tác dễ chết như chơi!
Nói đến đó, bà mẹ im lặng đưa mắt nhìn ra cánh đồng làng phía trước nhà, nơi chồng bà suốt đời làm lụng cực nhọc kiếm lúa về nuôi vợ, nuôi con. Vừa qua, ông đã qua đời vì bệnh. Nhà nghèo, không còn lại một tấm hình của ai cả, nhưng chắc bà nhớ rất rõ từng đứa con từ tiếng cười, giọng nói, tướng đi từ ngày còn nhỏ, cho đến lúc lớn lên đi làm cách mạng rồi lần lượt hy sinh. Có lẽ lòng mẹ nhiều lần cảm thấy trống vắng như hôm nay.
Bỗng Thành nói với tôi bằng một giọng sôi nổi: Anh Tư ơi! Sáng nay cấp lãnh đạo và chuyên viên thành phố về xã mình đông lắm. Họ phác hoạ mở rộng đường từ chợ xuống đây, băng ra đồng ruộng làng đến cầu Cá Lăng, tương lai sẽ làm cầu vượt sông Sài Gòn nối qua bên Bến Cát nữa đó anh.
Bà mẹ mỉm cười: Cha, phải chi ba mày còn sống, cho ổng thấy rõ, bõ những lúc ổng một mình đêm khuya thui thủi vác cuốc ra ruộng.
Trông bà đã vui trở lại và xen lẫn niềm tự hào vì trong sự đổi mới của làng xóm hôm nay có sự đóng góp xứng đáng của gia đình.
Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân NGUYỄN VĂN TÀU